Chương 6. Tư cách công dân dựa trên NNKH TP.HCM và tương lai thị trường xã hội chủ nghĩa: Tương tác trong môi trường khuyết tật
Những tương tác trong nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tật
Sau phần mô tả trước đó về cách thức mà các hệ tư tưởng đã được Nhà nước đã thể chế hóa tạo điều kiện cho người Điếc được tiếp cận các cơ hội về giáo dục NNKH Việt Nam và tương tác xã hội, Chương này tập trung vào các cơ hội và thách thức trong thời điểm hình thành các hình thức mới NNKH TP.HCM dựa trên các tổ chức xã hội và dạng khuyết tật như là hình thái kinh tế và chính trị xã hội trong thời gian gần đây. Theo những phân tích của tôi, cấu trúc tổ chức của các trường chuyên biệt dành cho người Điếc trong suốt thời kỳ đổi mới chính trị được hình thành dựa trên quan điểm coi người Điếc là một đối tượng đặc biệt – khuyết tật, không bình thường và chậm phát triển. Cấu trúc tổ chức như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chính sách xã hội và quan hệ hợp tác quốc tế gây tầm ảnh hưởng tới chính sách và chương trình giảng dạy chữ quốc ngữ, theo tôi, vẫn góp phần thay đổi quan điểm về người Điếc Việt Nam như là những trường hợp bị gạt ra khỏi giáo dục và kinh tế, tức là những gánh nặng về kinh tế chứ không phải là nhân tố đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Những hoạt động do những người Điếc thực hiện đã đáp trả lại những tư tưởng cố hữu bằng việc đòi quyền được lao động và tham gia các hoạt động xã hội dựa trên ngôn ngữ đặc thù, đóng góp và khẳng định bản thân. Hơn nữa, khác với các đối tượng điếc được mô tả ở những địa điểm khác trên thế giới (đặc biệt là các nước Bắc Đại Tây Dương)1, các tổ chức xã hội của người Điếc được đề cập trong cuốn sách này đã mang lại một góc nhìn mới về sự thay đổi xã hội liên quan đến cả người điếc và người nghe, cũng như kỳ vọng rằng họ sẽ đều cống hiến hết mình cho các mục tiêu phát triển quốc gia bằng cách ủng hộ việc tiếp cận, sử dụng và bảo vệ NNKH Việt Nam.
Xuyên suốt cuốn sách này, tôi bàn luận về những tác động của sự phân biệt đối xử giữa những học sinh “khiếm khuyết” và “bình thường” (con người, công dân), trong2 đó bao gồm cả việc tạo ra các khuôn khổ và quy tắc trong sử dụng và thực hành ngôn ngữ vốn được coi là đi chệch khỏi các chuẩn mực về ngôn ngữ nói/viết. Vì vậy, hãy nhớ lại những ví dụ trước đó, trong các trường chuyên biệt dành cho người Điếc, việc chỉ áp dụng phương pháp giảng dạy dựa trên lời nói đã tìm cách để sửa chữa một số điều mà các cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vẫn luôn cho là có khiếm khuyết. Trong những thập kỷ đầu tiên của thời kỳ cải cách thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các cán bộ cơ quan nhà nước đã thúc đẩy việc dạy nói như một phương thức để củng cố quốc gia. Đối với giả thiết này của các Bộ kể trên, vốn hiểu biết, những kỹ năng hữu ích và quyền công dân được hiểu là kết quả của khả năng tư duy và ngôn ngữ, hoặc như các ví dụ đã được khám phá trong các Chương trước cho thấy thường chỉ đơn giản là sự tồn tại của năng lực – tất cả đều là tiền đề cho phương pháp dạy nghe và nói chuẩn mực. Đổi lại, tiếp cận giáo dục, việc làm và các quyền công dân khác (có bằng lái xe, giấy chứng nhận kết hôn…) cũng tạo điều kiện để chứng minh những năng lực đó.
Từ năm 2005 đến 2015, khi những nỗ lực để phát triển và hiện đại hóa đã tạo ra các hình thái mới về chính trị - kinh tế, pháp lý, hỗ trợ toàn cầu và thương mại, và khi một quốc gia đã dần tiệm cận đến tình trạng thu nhập dưới trung bình – các nhánh của thị trường phát triển rộng khắp cả nước, liên kết với nhau tạo thành những hình thái mới. Trong khi trước năm 2010, các trường chuyên biệt dành cho người Điếc đã cấm sử dụng NNKH Việt Nam theo chính sách của chính phủ, việc cấm sử dụng NNKH Việt Nam trong các cơ sở giáo dục đã chính thức chấm dứt khi Luật Người khuyết tật 2010 được thông qua. Mặc dù vậy, sự cô lập và thiếu khả năng tiếp cận ngôn ngữ vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều cơ sở giáo dục chuyên biệt và trường học chuyên biệt. Một trong những nguyên nhân lý giải cho điều này là do Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa xây dựng quy trình đào tạo giáo viên sử dụng NNKH Việt Nam, đánh giá trình độ của họ, giám sát chất lượng giảng dạy bằng cách ngôn ngữ này và thiết cơ chế sử dụng giáo viên giảng dạy cho người Điếc có bằng cao đẳng của Việt Nam trong các trường học chuyên biệt dành cho người Điếc hoặc ở những địa điểm khác nơi mà tài năng của họ được phát huy tối đa. Hơn nũa, học sinh Điếc tiếp tục được đưa vào học tập trong môi trường giáo dục hòa nhập, nơi mà các em sẽ cảm thấy khó khăn khi giao tiếp trong lớp (NCCD, 2010). Hơn nữa, một cơ sở y tế toàn cầu tiếp tục đưa nhận những nhận định sai lầm về mặt khoa học liên quan đến người Điếc “trẻ em không được tiếp cận đủ với âm thanh [đang] có nguy cơ đáng kể về chậm phát triển nói, ngôn ngữ và học tập” (Nelson và cộng sự, 2014, trang 66) và vì sở hữu thứ NNKH có cấu trúc ngữ pháp bị xáo trộn. Phần lớn các quan điểm của các học giả trong số đó là do các học giả ở Việt Nam đưa ra (Sđd; Nguyện Đ. T. & Nguyễn TP, 2012; Nguyễn & Võ, 2010).
Những trường hợp này góp phần làm tình trạng của NNKH Việt Nam và người sử dụng NNKH Việt Nam trở nên tồi tệ hơn khi tiếp tục bị gạt ra ngoài lề trong lĩnh vực giáo dục và các lĩnh vực khác mà Nhà nước duy trì vai trò trung tâm trong việc trực tiếp cơ cấu, giám sát và đánh giá chương trình. Tuy nhiên, trong phạm vi thị trường, các doanh nghiệp và tập đoàn, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế đã đưa ra những điều khoản linh hoạt đối với nhân viên và nhóm đối tác. Do đó, trong các trường học chuyên biệt, học sinh Điếc phải đối mặt với áp lực trong việc tuân thủ các nhiệm vụ của tổ chức xã hội và nhà nước để thực hành ngôn ngữ nói tiếng Việt.
Bên ngoài phạm vi trường học, ngôn ngữ ký hiệu đang được xã hội quan tâm rộng rãi – như cuộc thảo luận của tôi về việc Trang xuất hiện trên truyền hình ở trong phần giới thiệu cuốn sách – nhưng đặc biệt là trong sáu năm qua (kể từ khi Luật người khuyết tật năm 2010 được thông qua). Cũng như các lĩnh vực xã hội và chính trị - kinh tế khác từng do Nhà nước kiểm soát độc quyền, nay đang trải qua quá trình “xã hội hóa” (hoặc “tư nhân hóa”), Chương này tập trung vào cách thức NNKH TP.HCM được giới truyền thông và các doanh nghiệp tư nhân đề cập, cả trực quan và văn bản, nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Phương tiện truyền thông và việc triển khai NNKH TP.HCM theo định hướng lợi nhuận như vậy là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các sáng kiến dựa trên NNKH TP.HCM của những người sáng lập tổ chức xã hội Điếc.
Nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tại Việt Nam
Năm 2008, các nhà cải cách thị trường xã hội chủ nghĩa đã thông qua hàng loạt văn bản pháp luật liên quan các khoản miễn thuế và hỗ trợ cho các doanh nghiệp sử dụng và/hoặc cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật, bao gồm: Quyết định số 51/2008/QD-TTg tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về “chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người tàn tật thành lập sản xuất kinh doanh”, miễn thuế tài sản kinh doanh cho các doanh nghiệp, Hướng dẫn số 1680/NHCS-TD tháng 7 năm 2008 về thực hiện các hướng dẫn mới đối với Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam) về việc cho vay vốn đối với các dự án kinh doanh liên quan đến người khuyết tật. Theo quy định cho vay mới, các chủ doanh nghiệp tiềm năng được yêu cầu chứng minh rằng doanh nghiệp của họ đã thúc đẩy “ổn định việc làm cho người khuyết tật và thu hút nhiều lao động là người khuyết tật” để nhận vốn vay (Phần 2, Chuẩn bị Dự án). Tuy nhiên, khi cuốn sách này tiếp cận theo nhiều cách khác nhau, sự quan tâm về bảo trợ xã hội mà nhà nước Việt Nam dành cho người dân không phải là mới.
Kể từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945, Phần 3, Điều 32), nhà nước Việt Nam đã chính thức ghi nhận người tàn tật, tập trung vào thời kỳ chống thực dân Pháp và thời kỳ đầu sau thống nhất, vì khuyết tật liên quan đến chiến tranh. Trong thập kỷ qua, sự xuất hiện của thuật ngữ người khuyết tật đã cho thấy những sai lầm trong phương pháp tiếp cận từ thiện và y tế của Nhà nước đối với công dân khuyết tật (xem phần giới thiệu cuốn sách này). Kể từ khi thông qua Luật Người khuyết tật năm 2010, thuật ngữ người khuyết tật ngày càng được sử dụng nhiều trong các chương trình chính thống, đồng thời giảm việc sử dụng thuật ngữ tàn tật, vốn được nhiều người ủng hộ khuyết tật và thành viên cộng đồng khuyết tật xem như một thuật ngữ mang tính chất miệt thị. Nhà nước cũng đã mở rộng sự hợp tác của mình với các nhóm sau này, trong số đó có các câu lạc bộ và hội người Điếc trên khắp đất nước – mặc dù phổ biến nhưng chưa được công nhận chính thức. Tuy nhiên, những thay đổi trong cách thức đưa tin và sự chủ động phối hợp với các nhóm là những dấu hiệu cho thấy quan điểm chính thức của Nhà nước đối với người khuyết tật (hình 6.1, phần (a) và (b)).
Hình 6.1, phần 9a) và (b): Những hòm từ thiện ủng hộ người khuyết tật. Hình 6.1(a) (trái): Hòm Từ thiện của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam tại Trung tâm Lữ hành Roadside với Ngôn ngữ Ký hiệu Anh Quốc: “Chung tay vì người yếu thế và người tàn tật.” Hình 6.1 (b) (phải): Hòm Từ thiện, Sân bay Nội Bài Hà Nội với dòng chữ tiếng Việt: Hòm Từ Thiện, Trẻ Em Đặc Biệt Khó Khăn. Ảnh được chụp vào tháng 1 năm 2013.
Hiện nay, khuyết tật là một vấn đề mang tính thời sự - không đơn thuần do các nhà hoạt động xã hội và những nỗ lực nghiên cứu trong hơn 30 năm qua nhằm thu hút sự chú ý đến tình trạng nghèo đói tột cùng và bị gạt ra ngoài lề xã hội mà “người khuyết tật” đang phải đối mặt ở khắp mọi nơi. Đây là kết quả được đưa ra bởi các nguồn dữ liệu uy tín hàng đầu về tình trạng khuyết tật và nghèo đói trên toàn thế giới (Ví dụ: WHO, ILO, World Bank). Tuy nhiên, đặc biệt là trường hợp của Việt Nam, một quốc gia đang ở trong hoàn cảnh khó khăn trong việc lập kế hoạch khắc phục hậu quả lâu dài của chất độc màu da cam và tìm hiểu về cuộc sống của những người đang bị ảnh hưởng bởi thuốc diệt cỏ. Mặc dù nhiều quốc gia khác hiện nay cũng phải đối mặt với tình trạng môi trường bị tàn phá, nhưng chỉ số ít quốc gia như Việt Nam (Kimmons, 2014; Martin, 2012) phải đương đầu với những di chứng của chất độc đi-ô-xin. Chính trong bối cảnh đó, sự lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam trong việc mở rộng phạm vi các quyền được pháp luật bảo vệ và thúc đẩy thực hiện những quy định về phổ cập giáo dục, chăm sóc sức khỏe và việc làm.
Tuy nhiên, những gì mà phạm vi thị trường cho phép lại vượt quá và thường xung đột trực tiếp với các chính sách và đề án của Nhà nước. Khi pháp luật về kinh doanh và các chính sách xã hội thúc đẩy việc mở ra cơ hội về kinh tế cho người khuyết tật, cá nhân và nhóm Điếc tiếp tục gặp phải sự phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm – cho dù họ có được tuyển dụng hay không.
Một trong những cơ hội việc làm đầu tiên liên quan đến người khuyết tật đã áp dụng cho doanh nghiệp là đã tạo ra sau khi Quyết định số 51/2008/QĐ-TTg và Hướng dẫn số 1680/NHCS-TD (sau đây gọi là Quyết định 51 và Hướng dẫn 1680) đã tạo ra việc làm sản xuất và cung ứng hàng hóa cho ngành thương mại du lịch (Nguyễn, Rahtz, & Schultz, 2014). Cũng trong giai đoạn này, các “nhánh du lịch mới” bắt đầu xuất hiện (Suntikul, Butler, & Aiery, 2008, tr. 68). Một trong những hoạt động đầu tiên là “du lịch dành cho người khuyết tật nghe”, theo cách gọi của nhiều doanh nghiệp người nghe, những người tìm cách thu hút du khách “có khuyết tật về nghe” từ Hoa Kỳ và châu u (hình 6.2).
Hinh 6.2. Hướng Dẫn Du Lịch Cho Người Khiếm Thính Thái Bình tại Báo Tuổi Trẻ, số ngày 20 tháng 9 năm 2008.
Trong một Chương của ấn phẩm mang tên Thế giới Nhỏ: Không gian và Cuộc gặp gỡ của những người Điếc Quốc tế (Friedner & Kusters, 2015), tôi đề cập đến tình huống về sự phản ứng của các nhà lãnh đạo các tổ chức của người Điếc đối với du lịch dựa trên NNKH tại Việt Nam, tập trung vào chủ quyền của NNKH Việt Nam nói chung và sự du nhập của NNKH trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là bởi những người không phải công dân Việt Nam và có hiểu biết về văn hóa Việt Nam. Trong Chương đó, tôi dẫn chiếu tới nghiên cứu của mình về việc làm đối với các thành viên của cộng đồng người Điếc, bao gồm các thảo luận về du lịch, trong đó có cuộc phỏng vấn đầu tiên với nhóm năm nhà lãnh đạo các tổ chức xã hội của người Điếc vào tháng 12 năm 2013 – một trong số đó đến từ Hà Nội và bốn người còn lại đến từ TP.HCM – đã đưa đến một nhận định như sau:
Trong số các câu trả lời của họ, du lịch nổi lên như một mối quan tâm trọng điểm với các bình luận mở rộng đề cập đến các hoạt động du lịch dự trên NNKH do người nghe điều hành tại miền Bắc và miền Nam Việt Nam, trải nghiệm của một người trong số đó với “chuyến du lịch dành cho người Điếc” dựa trên NNKH tới Cam-pu-chia và các chuyến tham quan dựa trên NNKH trong thời gian sắp tới được tổ chức bởi các công ty lữ hành đến từ Hoa Kỳ. Các chủ đề này dẫn đến các cuộc thảo luận nhóm đầy cảm xúc về hai vấn đề mà những người được phỏng vấn đều đồng ý yêu cầu một số dạng hành động: (1) cách thức ngăn chặn các tổ chức lữ hành nước ngoài thực hiện các chuyến du lịch dựa trên NNKH tại lãnh thổ Việt Nam và (2) cách thức ngăn chặn các công ty lữ hành trong nước sử dụng NNKH Hoa Kỳ (ASL). Trong các cuộc thảo luận này, các chủ đề về sự thay đổi ngôn ngữ trùng lặp với các chủ đề về phát triển kinh tế (Cooper, 2015, p. 104).
Các lập luận mà tôi xây dựng tại đó cũng được vận dụng ở đây:
Cộng đồng người khuyết tật tại Việt Nam phần lớn mang lại lợi ích cho các cộng đồng quốc gia và người Điếc nước ngoài thay vì chính động đồng và ngôn ngữ mà sự tồn tại của họ là một phần của cộng đồng phụ thuộc. Vì vậy, lợi ích của những nhà lãnh đạo của cộng đồng người Điếc trong việc bảo vệ văn hóa của người Điếc Việt Nam và các tài nguyên về ngôn ngữ cần phải được Chính phủ Việt Nam, UNWTO [Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc] cũng như các đối tác lữ hành trong nước và quốc tế quan tâm (Sđd., tr. 108).
Các phần tiếp theo trong Chương này làm sáng rõ và mở rộng các kết luận mà tôi đã có được (Sđd).
Trong số các chủ doanh nghiệp liên quan đến khuyết tật mà tôi gặp ở miền Nam Việt Nam (khoảng sáu người) trong giai đoạn 2008 đến 2012, không ai tự nhận mình là người khuyết tật, và một người trong số họ là người Điếc. Đó là một phụ nữ đã mở một quầy hàng nhỏ ngoài trời ở TP.HCM để bán mũ và phụ kiện. Đến năm 2012, cô ấy đã có cửa hàng riêng với doanh thu ở mức tốt (khi cuốn sách này được xuất bản, cô ấy đã mở rộng quy mô kinh doanh và thậm chí cô ấy đã có thể mua nhà riêng). Năm doanh nghiệp khác thuộc sở hữu của người |NGHE|, chuyên tiếp thị hàng dệt may và hàng thủ công cho các cửa hàng trong nước và nước ngoài hoặc điều hành công ty lữ hành dành chuyên cung ứng dịch vụ cho khách du lịch người Điếc. Người Điếc cũng làm việc tại một số công ty này. Một công ty – Công ty Cổ Phần Khiếm Thính Bảo Chung (sau đây gọi tắt là Bảo Chung) – đã truyền lại các kỹ năng làm đồ thủ công cho các nữ sinh Điếc tại các trường chuyên biệt. Họ được thuê để sản xuất và bán những món đồ mà họ làm ra cho các chợ địa phương tại TP.HCM (ví dụ về một doanh nghiệp khác tương tự được đề cập đến trong phần tiếp theo). Chủ của Bảo Chung kể với tôi rằng cô ấy xuất khẩu hàng thủ công cho các cửa hàng ở Hoa Kỳ, chủ yếu là California. Vài người Điếc cũng làm việc tại phòng kinh doanh của Bảo Chung, nơi họ làm công việc nhập dữ liệu vào máy tính. Chủ công ty cũng tham gia vào sự kiện Ngày Quốc tế Phụ nữ của HDC (tháng 3 năm 2009), sự kiện này được ghi lại để đưa tin sau này. Tại sự kiện này, cô đã mời các thành viên của HDC đến ứng tuyển tại công ty của mình (lúc bấy giờ chưa có nhân viên nào là người khuyết tật).
Một công ty khác tên Smile Tours International tại TP.HCM, tiếp thị các gói du lịch có hướng dẫn viên cho khách du lịch người Điếc từ các quốc gia khác và tuyển dụng người Điếc Việt Nam để thực hiện những chuyến đi này. Chủ sở hữu Smile Tours quyết định tiếp thị các dịch vụ này tới những người chủ yếu sống ở Hoa Kỳ và/hoặc các khách du lịch có sử dụng Ngôn ngữ Ký hiệu Hoa Kỳ.3 Tập trung vào những người Điếc gồm cả nguồn nhân lực sẵn có của cô ấy và ngoài thị trường nhánh, chủ sở hữu Smile Tours đã có những sự lựa chọn nhất định về ngôn ngữ ký hiệu và quảng bá về ngôn ngữ ký hiệu. Tiếp theo, tôi thảo luận về tác động của những sự lựa chọn này và ảnh hưởng của chúng đến người sử dụng NNKH TP.HCM. Xem Cooper (2015) để thấy cuộc thảo luận mở rộng về trường hợp của du lịch “khiếm thính” và phản ứng của cộng đồng người Điếc đối với sự du nhập của NNKH vào Việt Nam.
Để mở công ty, chủ sở hữu của Smile Tours đã tìm kiếm những người có thể đào tạo cho các hướng dẫn viên du lịch của mình cách sử dụng NNKH. Khi tôi và cô ấy cùng tham gia một lớp NNKH TP.HCM tại Trung tâm Phát triển, chủ công ty này đã cố gắng đề nghị tôi dạy NNKH cho các hướng dẫn viên du lịch của cô ấy. Một trong những người đồng điều hành DAGD nói với tôi rằng cô ấy cũng đã tiếp xúc với cả anh ấy và một trong những học giả đến thăm của DAGD từ Hoa Kỳ. Người đồng điều hành DAGD đã mô tả cách anh và học giả người Mỹ gặp gỡ chủ sở hữu Smile Tours và khuyến khích cô giới thiệu các dịch vụ du lịch của mình bằng NNKH TP.HCM: Mô tả các mô hình tương tự được thành lập ở các quốc gia khác, họ chỉ ra cách thức sử dụng ngôn ngữ ký hiệu địa phương thu hút du khách người Điếc như một loại hình để giao lưu văn hóa. Cuối cùng, chủ công ty đã tuyển hai người Điếc từ Úc để dạy NNKH cho các hướng dẫn viên du lịch của mình4.
Tôi mô tả bối cảnh xuất hiện của các doanh nghiệp liên quan đến yếu tố khuyết tật được Nhà nước Việt Nam hỗ trợ để đưa ra hai ý kiến. Thứ nhất, mặc dù khuyết tật đã và đang là vấn đề được quan tâm sau chiến tranh ở Việt Nam, khả năng của người Điếc cũng vẫn bị lu mờ bởi các tư tưởng “cần giúp đỡ”, “đáng thương”, “phụ thuộc” gán lên họ. Các khung pháp lý mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của người khuyết tật vào hoạt động kinh doanh ngầm đối trọng lại với những quan niệm này. Đồng thời, như ví dụ của Smile Tours chỉ ra, những người Điếc sử dụng NNKH Việt Nam có nguy cơ phải tuân theo một loạt các chỉ thị mới, mà hiện giờ đang được thống trị bởi lợi ích của cộng đồng người nghe. Để rõ ràng hơn, việc học một ký hiệu mới như NNKH Hoa Kỳ5 không phải là vấn đề. Tuy nhiên, những cơ hội như vậy trong ngành tiếp thị rất khó để có thể dung hòa với việc người Điếc và người khiếm thính thiếu khả năng tiếp cận về giáo dục và việc làm nói chung và việc người Điếc thiếu khả năng tiếp cận ngôn ngữ chuyên ngành bằng ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam nói riêng. Như phản ứng của cộng đồng người Điếc đối với những trường hợp này cho thấy (Cooper, 2015), các vấn đề về chủ quyền ngôn ngữ và văn hóa là mối quan tâm hàng đầu, cùng với quyền và mong muốn của người Điếc trong việc hình thành các quyết định về ngôn ngữ của riêng họ tại Việt Nam.
Hồi sinh Chủ nghĩa Truyền thống: Khi người Điếc là lao động chân tay
Trong năm 2008 và 2009, tôi đã có cơ may – với tư cách là một con người và là một nhà nghiên cứu – được làm quen với Thịnh, phóng viên ảnh được chỉ định đưa tin về các sự kiện liên quan đến khuyết tật (xem Chương 5). Chúng tôi cùng nhau tham gia các cuộc họp cộng đồng Điếc, các lớp NNKH TP.HCM, phỏng vấn chính thức với các bên thứ ba và trò chuyện qua những buổi cà phê. Ngoài ra, Thịnh còn mời Mĩ (phiên dịch viên NNKH TP.HCM – tiếng Việt, hợp tác với DAGD) và tôi để tham gia cùng anh ấy và một đồng nghiệp đi xe máy đến tỉnh Long An để thăm một doanh nghiệp có mục đích tuyển dụng và cung cấp dịch vụ giáo dục cho phụ nữ Điếc. Phần này tập trung đề cập đến chuyến thăm Long An diễn ra vào ngày 22 tháng 8 năm 2008. Thịnh cũng dành phần lớn thời gian để tìm hiểu về một sự kiện mà tôi sẽ nhắc đến trong phần tiếp theo (xem Café Lang), trong đó chúng tôi cùng tham gia (cùng với Mỵ và những người khác là bạn bè và đồng nghiệp của Thịnh) nhưng lại nhìn nhận theo những cách khác nhau.
Nằm ở một khu vực khá hẻo lánh của tỉnh Long An (thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cách TP.HCM khoảng 55 km về phía Tây Nam), người phụ nữ sở hữu doanh nghiệp được đề cập đã thành lập doanh nghiệp này sau khi nhà nước Việt Nam thông qua hàng loạt các quy định của pháp luật được mô tả trước đó, trong đó bao gồm các quy định về miễn thuế và các ưu đãi cho doanh nghiệp sử dụng và/hoặc cung cấp các dịch vụ cho người khuyết tật. Trong khi số lượng các tổ chức phi Chính phủ quốc tế (INGOs) trước đây chiếm ưu thế trong các quyết sách về định hướng phát triển tại Việt Nam, thì Quyết định 51 và Hướng dẫn 1680 đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của nhiều dự án kinh doanh liên quan đến người khuyết tật, cũng chính là việc mà Thịnh đã theo đuổi bằng cả tâm huyết xen lẫn sự hoài nghi.
Sau khi được giao phụ trách các chủ đề về người khuyết tật, Thịnh có cơ hội gặp gỡ những người Điếc và sau đó đã tìm kiếm và thấy các lớp NNKH TP.HCM do sinh viên EP dạy vào cuối tuần tại Trung tâm Phát triển; tuy nhiên, trình độ thông thạo NNKH TP.HCM của anh ấy chưa đủ để giúp anh ấy giao tiếp được với nhân viên Điếc hoặc gia đình có liên quan đến tin tức phóng sự theo cách mà anh ấy muốn. Thịnh đưa tôi và Mỹ đi xem cơ sở kinh doanh cụ thể này, được biết đã thu được lợi nhuận khá lớn từ những tấm thảm thêu do các nhân viên sản xuất, để tương tác trực tiếp với các nhân viên Điếc. Mỹ sẽ phiên dịch các câu hỏi phỏng vấn mang tính chất thân mật của anh ấy, và sau đó chúng tôi sẽ thảo luận về ấn tượng của chúng tôi về những gì chúng tôi đã thấy.
Đến trước 10 giờ sáng, chúng tôi ở lại vài giờ và có cuộc trò chuyện đầu tiên với chủ doanh nghiệp tại văn phòng, nằm ở phía trước một dãy nhà nhỏ gần nhà của cô ấy. Trong khi chúng tôi nói chuyện trong văn phòng có không gian ngoài trời thì một trong số (khoảng) mười phụ nữ Điếc mà cô ấy tuyển vào làm việc thi thoảng tới hỏi một câu hỏi. Những lúc như vậy, chúng tôi giới thiệu bản thân và mời nhân viên tham gia cuộc trò chuyện của chúng tôi (Với Mỹ, cô ấy có thể vừa phiên dịch vừa tiếp tục cuộc trò chuyện). Chúng tôi đã nói chuyện với hai nhân viên Điếc trong một khoảng thời gian dài (30–45 phút), hỏi họ những câu hỏi về gia đình, học vấn của họ, cách họ đã gặp chủ doanh nghiệp và việc học nghề của họ, v.v. Cả hai cho biết họ đã học thêu tại các trường đặc biệt mà họ chỉ theo học một thời gian ngắn và thông qua công việc kinh doanh ở Long An.
Sau một giờ hoặc lâu hơn, chủ doanh nghiệp đưa chúng tôi đi tham quan quá trình hoạt động, trong đó bao gồm khu vực thêu ren chính – cũng là một không gian ngoài trời ở phía trước, với cửa thoát hiểm một bên ở phía sau, và phía sau của khu vực thêu là khu vực nghỉ ngơi của tập thể lao động và nơi để tắm rửa (hình 6.3, phần (a) và (b)).
Hình 6.3, phần (a) và (b): Một doanh nghiệp được miễn thuế ở tỉnh Long An sử dụng thợ thêu là một phụ nữ Điếc Hình 6.3 (a) (trái): Dựng mẫu thêu bằng phấn. Hình 6.3 (b) (phải): Khung Thêu bao quanh một thiết kế thêu hoa sen đã hoàn thiện được một phần.
Sau khi quan sát xung quanh khu vực làm việc và sinh hoạt, chúng tôi dành khoảng một giờ đồng hồ để xem những tấm thảm thêu tinh xảo mà chủ doanh nghiệp/nhà cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật tự hào kể rằng, chúng được “bán với giá rất cao ở Hoa Kỳ”. Cô nói rằng cô đã đă kiếm được một mức giá khá tốt (100–200 đô-la mỗi tấm thảm, tùy thuộc vào thiết kế và kích cỡ) cho những tấm thảm này mà cô thường không bán tại Việt Nam. Giá của những sản phẩm này chắc chắn phải ngang bằng với tỷ lệ giao dịch, dựa trên cả thời gian và cường độ làm việc mà nghề thủ công yêu cầu, cũng như khả năng tay nghề cần thiết để đáp ứng các yêu cầu về thiết kế và độ chính xác, chưa kể đến tính nhất quán về chất lượng.
Những nỗ lực của tôi trong việc học nghề thêu đã minh chứng một cách rõ ràng cho mọi người thấy rằng, thêu ren là một nghề đòi hỏi phải phát triển kỹ năng tay nghề cao, trong khi tôi thì thất bại thảm hại khi thực hiện điều đó (xem hình 6.4, phần (a) và (b)). Đây cũng là một công việc đòi hỏi sự chuyển động lặp đi lặp lại trong nhiều giờ để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật nhỏ hoặc lớn và gây căng thẳng cho mắt, ngón tay, bàn tay và toàn bộ cơ thể.
Hình 6.4, phần (a) và (b): Những thợ thêu người Điếc đang trình diễn tay nghề thủ công trên vải Hình 6.4 (a) (trái): Hai thợ thêu người Điếc đang trình diễn kỹ thuật thêu (nhà nghiên cứ ở chính giữa bức ảnh). Hình 6.4 (b) (phải): Tủ đựng chỉ thêu.
Sau chuyến tham quan xưởng, Thịnh, Mĩ và tôi cùng chủ doanh nghiệp trở về văn phòng của cô ấy và ngồi nói chuyện thêm khoảng một giờ đồng hồ nữa. Trong thời gian này, Thịnh bắt đầu theo đuổi dòng nghi vấn về việc đào tạo nghề có mục đích cho các thợ thêu. Trong cuộc trò chuyện này, chủ doanh nghiệp đã phàn nàn về những khó khăn mà cô ấy gặp phải trong việc tìm tài liệu để đào tạo cho nhân vien và cả việc cô ấy không tiếp cận được các lớp dạy ngôn ngữ ký hiệu. Khi cô ấy lôi “cuốn giáo trình” giảng dạy của mình từ trên kệ gần đó xuống, Thịnh, Mĩ và tôi đã vô cùng ngạc nhiên vì đây thực ra là một cuốn sách từ vựng khác được xuất bản vào năm 2002 với sự hợp tác giữa Viện Khoa học Giáo dục Quốc gia, USAID và Pearl S. Buck International (hình 6.5).
Hình 6.5: Ký Hiệu Ngôn Ngữ Cử Chỉ Điệu Bộ Của Người Điếc Việt Nam.
Danh sách từ vựng này, một cuốn sách toán bằng tiếng Anh và “cuốn sách đầu tiên về các ký hiệu” bằng NNKH và tiếng Anh của trẻ em là “tài liệu giảng dạy” của cô ấy. Sau đó, chúng tôi bắt đầu hiểu rằng doanh nghiệp của cô ấy chỉ đơn giản là: Một doanh nghiệp khai thác và thu lợi từ kỹ năng đáng kể của các nhân viên.
Tiếp thị Café và Kiểm duyệt: Bức họa về sự kiểm soát của truyền thông đối với nhân viên Điếc và những vị khách quen tại Café Lặng
Café Lặnga6 là một quán café nhỏ vào năm 2008 và 2010 với phòng chính bao gồm một mặt sàn cao chứa khoảng mười bàn nhỏ với chân bàn ngắn để có chỗ ngồi trên sàn lót đệm. Căn phòng có sức chứa thoải mái cho khoảng 25 người (hình 6.6).
Hình 6.6. Café Lặng, TP.HCM
Vào một buổi tối diễn ra công tác kiểm duyệt tại quán café này, Thịnh (phóng viên ảnh đã giới thiệu lần đầu tại Chương 5) đã mời Mĩ và tôi gặp anh ấy tại quán café Lặng vì một đồng nghiệp tại đài truyền hình của anh ấy đã nói rằng HTV 9, một đài phát thanh và truyền hình tại TP.HCM (thuộc sở hữu Nhà nước), sẽ thực hiện một câu chuyện vì lợi ích cộng đồng về các nhân viên người Điếc, và anh ấy muốn hỗ trợ đồng nghiệp của mình với đông đảo số lượng người tham gia7. Các bối cảnh bảo gồm những thương nhân sử dụng ngôn ngữ ký hiệu như một nét đặc trưng vì họ cho rằng khách hàng tiềm năng của quán café có thể cảm nhận được rằng họ là một thực thể đặc biệt giống như mô tả của Friedner (2013) đối với các nhà sản xuất bia Ấn Độ và Hoffman-Dilloway (2011) đối với các quảng cáo có người phục vụ là người Điếc kết hợp với chuỗi cửa hàng bánh mì của người Ne-pan (xem Haualand, Solvang, & Breivik, 2015).
Thịnh đã mời 5-6 người bạn khác, và tất cả chúng tôi ngồi thành một vòng tròn, gọi trà, và nói chuyện khi đợi đoàn phóng viên của đài truyền hình tới. Ban đầu chỉ có một người dẫn chuyện là người Điếc và một nhận viên phục vụ người Điếc, vì vậy khi họ tiến lại bàn của chúng tôi, Mĩ và tôi đã bắt chuyện với họ. Thịnh cũng ký hiệu với họ, hỏi tên họ và hỏi xem cuộc sống của họ thế nào, bằng cách chào hỏi lịch sự |CÓ KHOẺ KHÔNG??]|. Một trong số những người bạn của Thịnh hỏi rằng điều gì đã đưa tôi đến với Việt Nam. Tôi trả lời rằng tôi muốn học NNKH TP.HCM và rằng tôi đã bắt tay vào làm nghiên cứu về người Điếc của Việt Nam. Trước câu trả lời của tôi, Thịnh đáp lại một cách đầy dứt khoát: “Thuật ngữ chính xác phải là khiếm thính!”. Tôi đã trả lời một cách ôn tồn, do nghĩ rằng phải chăng anh ấy đang có sự hiểu lầm, rằng các giáo viên dạy NNKH TP.HCM của tôi và nhiều người mà tôi đã phỏng vấn đều nói rằng họ thích người Điếc hơn. Thịnh bỗng nhiên đáp lại một cách nghiêm túc: “Không, không, Audrey, bạn sai rồi. Đó là cách tư duy ở bên Mỹ. Người Điếc ở Việt Nam không được học hành, nên không thể phân biệt được chúng khác nhau như thế nào. Họ không biết rằng họ nên sử dụng thuật ngữ khiếm thính.” Trong những dịp trước và trong cuộc phỏng vấn trang trọng của chúng tôi, Thịnh đã sử dụng thuật ngữ người Điếc. Nhưng trong buổi gặp gỡ này, anh ấy tỏ ra khá cương quyết. Một trong số những người bạn của anh ấy xen vào: “[Thịnh] biết rằng nếu bạn sử dụng cụm từ Điếc, người ta sẽ nghĩ rằng bạn rất thiếu lịch sự. Nếu bạn sử dụng cụm từ khiếm thính, người ta sẽ nghĩ bạn là người tế nhị”. Tôi nói rõ: “Ý bạn có phải người ta sẽ đánh giá một con người thông qua việc người đó sử dụng thuật ngữ Điếc?” “Đúng là như vậy”, người bạn ấy trả lời, “vì vậy bạn nên sử dụng khiếm thính (Thịnh đã gật đầu khi nghe bạn mình nói).
Giám đốc đơn vị khiếm thính của Trung tâm Phát triển cũng đưa ra lời buộc tội tương tự về ảnh hưởng của người Mỹ trong một cuộc phỏng vấn với một tờ báo ở TP.HCM, nơi đã xuất bản một phóng sự xã hội rất đặc biệt thông qua Nhà xuất bản Công an Nhân dân. Trong bài báo đó với tiêu đề Lạc vào thế giới không âm thanh, giám đốc HIU đã cho rằng DAGD đã dạy học sinh của mình ngôn ngữ ký hiệu Hoa Kỳ (Ngôn ngữ ký hiệu Hoa Kỳ; Dung, 2008, tr. 74). Sau khi được xuất bản các câu chuyện về Trung tâm Phát triển, Thịnh đã biết rõ quan điểm của giám đốc HIU về người Điếc, các giảng viên dạy NNKH TP.HCM được DAGD đào tạo (từng là giáo viên của anh ấy tại Trung tâm Phát triển và bối cảnh bùng nổi sự mâu thuẫn của giám đốc HIU về sau này. Với cuộc trao đổi này, các vấn đề về quyền tự quyết và các điều khoản ưu đãi đã gây ra các tuyên bố8 về chủ nghĩa siêu xã hội về tính chủ quan của bản thân và tập thể (Jaffe, 2009), lập trường thuộc về lý trí và tình cảm trước một nội dung nhận định (Sđd.), tính chính trị trong cách sử dụng ngôn ngữ (Duranti, 1994), và những tác động của các cơ quan chức năng (Ahearn, 2001b; Duranti, 2007).
Trong quá trình giao lưu tại Café Lặng, có thể thấy rằng Thịnh là người chưa từng ghé thăm DAGD nhưng đang dành nhiều thời gian hơn cho giám đốc HIU và tham gia vào các hoạt động của HIU, và dường như anh ấy đã bị thuyết phục để chấp nhận quan điểm của giám đốc HIU về người Điếc Việt Nam. Quan điểm đó cho rằng người Điếc không phải là người bình thường và họ thiếu khả năng tư duy và ngôn ngữ như người bình thường. Giả định này cho thấy khả năng hiểu sâu sắc về cách sử dụng ngôn ngữ, hoàn cảnh xã hội và khả năng đáp ứng các điều kiện xã hội học ngôn ngữ của chuẩn mực xã hội. Điều đó cũng hạn chế khả năng của người Điếc trong việc tự mình đưa ra các quyết định, tự mình chịu trách nhiệm như một thực thể độc lập. Thịnh cũng có thể đã tin – như giám đốc HIU đã nói với tôi – rằng chính sách ngôn ngữ của DAGD không nên sử dụng NNKH TP.HCM trong chương trình giảng dạy. Cách sử dụng như vậy, theo giám đốc HIU – và bây giờ là Thịnh – cho rằng “ngữ pháp của NNKH TP.HCM rất tệ” vì không tương ứng với ngữ pháp tiếng Việt.
Hơn nữa, cả Thịnh và giám đốc HIU đều nói rằng họ tin rằng NNKH TP.HCM là NNKH do DAGD đang dạy cho những người Điếc. Thay vì coi việc sử dụng NNKH TP.HCM trong chương trình giảng dạy của DAGD như một cơ hội để những người Điếc không ngừng chia sẻ ý tưởng của họ trong khi họ tiếp thu kiến thức mới (họ sẽ tạo ra các từ mới – biểu trưng cho các khái niệm mà họ gặp), Thịnh và giám đốc HIU đã nhìn nhận DAGD với một ánh mắt đầy sự nghi ngờ. Trong mắt họ, DAGD là tổ chức do Mỹ điều hành đang thay thế quan điểm của người Việt Nam bằng quan điểm của người Mỹ. Quan điểm này có thể được lý giải do sự khác biệt về cấu trúc giữa DAGD và hệ thống giáo dục Việt Nam: DAGD có sự tương tác ngang hàng giữa giáo viên và học sinh, còn hệ thống giáo dục Việt Nam chủ yếu dựa vào giáo viên, bất chấp sự chỉ trích từ các cán bộ Bộ GD&ĐT cùng với NIES và hệ thống các trường cao đẳng đào tạo giáo viên trên cả nước.
Từ quan điểm của Thịnh với tư cách là một phóng viên ảnh và quan điểm của Giám đốc HIU trong một tổ chức hoạt động vì người khuyết tật và do người khuyết tật điều hành, cả hai đều đã chứng kiến tác động mà các tập đoàn và INGO nói tiếng Anh đã gây ra ở Việt Nam. Do đó, họ cho rằng người Điếc Việt Nam là đối tượng tiếp nhận và thực sự dễ bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng được đưa ra bởi DAGD và những nơi khác, do những vấn đề đã được xác định trong hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục người Điếc nói riêng. Điều đó có nghĩa là, quan điểm này không tính đến khả năng của người Điếc Việt Nam trong việc phản ánh, phê bình, sáng tạo những ý tưởng mà họ có thể thực hiện được, hoặc thậm chí là có tiềm năng gây tầm ảnh hưởng đến tiến trình của bối cảnh đương đại.
Vào thời điểm này trong niềm hân hoan của tôi và nhóm trò chuyện của chúng tôi, phóng viên và quay phim của HTV9 đã đến Café Láng. Tôi và Mĩ quay sang nói chuyện với một số nhân viên của quán cà phê. Người phóng viên thấy chúng tôi ký hiệu và nhờ Mĩ mời tôi tham gia phỏng vấn. Tôi đã đồng ý. Sự kiện sau đó phản ánh cuộc trao đổi tôi với Thịnh trước đó:
Phóng viên: Chị thấy Café Lang như thế nào?
Cooper: Café Lang là rất đẹp, rất vui.
Phóng viên: Tại sao chị lại chọn quan cafe này?
Cooper: Tôi thích người Điếc. Tôi thích nói chuyện với người Điếc bằng ngôn ngữ ký hiệu.
Phóng viên: [quay sang người quay phim và yêu cầu anh ấy dừng quay phim, sau đó quay sang Mỹ, và họ nói lướt nhanh bằng tiếng Việt]
Mi: Cô ấy nói rằng chị đã sử dụng từ người Điếc và chị phải sử dụng từ khiếm thính. Cô ấy nói rằng cô ấy sẽ hỏi chị câu hỏi một lần nữa, và lần này chị sẽ nói từ khiếm thính. [Mĩ tiếp tục phiên dịch.]
Cooper: Tôi rất xin lỗi, nhưng tôi không thể làm như vạy được. Tôi không sử dụng từ khiếm thính.
Phóng viên: [với Mĩ đang phiên dịch] Nếu chị nói người Điếc, các biên tập viên của tôi sẽ không cho phép tôi sử dụng cuộc phỏng vấn này. Bởi vì chúng tôi sẽ phát sóng trên truyền hình, rất nhiều người sẽ xem chương trình này. Sẽ không hay lắm nếu sử dụng từ Điếc vì người xem có thể nghĩ chúng ta không tôn trọng người Điếc. Từ Điếc là không hay. Chúng ta sẽ bắt đầu lại cuộc phỏng vấn, và chị sẽ sử dụng từ khiếm thính, được chứ? Cooper: Tôi xin lỗi, nhưng giáo viên dạy ngôn ngữ ký hiệu của tôi và bạn bè tôi đều nói rằng họ không thích bị gọi là khiếm thính, vì vậy tôi sẽ nói là người Điếc để bày tỏ sự tôn trọng đối với họ.
Cooper: Tôi xin lỗi, nhưng giáo viên dạy ngôn ngữ ký hiệu của tôi và bạn bè tôi đều nói rằng họ không thích bị gọi là khiếm thính, vì vậy tôi sẽ nói là người Điếc để bày tỏ sự tôn trọng đối với họ.
Phóng viên: Nhưng tôi sẽ không thể đưa cuộc trò chuyện với chị lên sóng truyền hình.
Cooper: Không sao cả. Cảm ơn bạn.
Cuối cùng, họ vẫn đưa chúng tôi lên truyền hình, vì một số thành viên của Câu lạc bộ người Điếc cho biết đã nhìn thấy tôi trên chương trình phát sóng; tuy nhiên, phân đoạn duy nhất mà HTV9 phát sóng của Mĩ và tôi khi chúng tôi đang ký hiệu với một số nhân viên của Café Lặng.
Sau cuộc phỏng vấn, khi tôi và Mĩ gặp lại Thịnh và những người bạn của anh ấy, một người phụ nữ chưa từng lên tiếng trước đó bỗng ngả người về phía trước nói nhỏ:
Tôi không cho rằng từ “Điếc” là một từ mang tính tiêu cực. Diều này phụ thuộc vào giọng nói. Chúng ta có thể nói từ “Điếc” thể hiện sự không tôn trọng, hoặc chúng ta có thể nói “Điếc” thể hiện sự tôn trọng.
Với câu nói này, Thịnh suýt nữa nhảy qua bàn rồi nói một cách đầy giận dữ: Em sai rồi! Em không biết gì hết! Mặc dù sự thay đổi trong quan điểm một cách rõ ràng của Thịnh có thể lôi cuốn sự chú ý của người khác, nhưng trong chuỗi sự kiện này thì đó lại không phải là điểm hấp dẫn nhất. Điều hấp dẫn là các mà một cuộc tụ họp tưởng chừng như vô thưởng vô phạt, nếu không muốn nói rằng nó giống như một buổi tiệc ăn mừng, đã bùng nổ không chỉ những quan điểm xã hội vô cùng khác biệt mà còn là sự nhất quán trong quan điểm của những người làm truyền thông hiện nay – Thịnh trong lĩnh vực báo in và HTV9 trong lĩnh vực báo chí truyền hình – như vậy số ít các quan điểm hoặc bị ngăn cản hoặc kiểm duyệt khắt khe. Có thể đặc điểm nổi bật nhất của sự phân biệt đối xử này là những người Điếc không được hỏi ý kiến, mặc dù họ ngồi ở các bàn liền kề và phục vụ trà cho chúng tôi.
Các tình huống tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại các đối tượng người Điếc Việt Nam và tạo khuôn khổ cho các điều khoản tham chiếu ưu đãi cho người Điếc chính là tầm ảnh hưởng của quyền lực (tức là các quan niệm, tư tưởng về ngôn ngữ hình thành nên cơ chế của nhà nước) và các nhân tố quan trọng hình thành nên quyền tự quyết của người Điếc Việt Nam trong bối cảnh đương đại. Nếu người Điếc không thể bày tỏ mối quan tâm của họ thông qua các không gian ngoài xã hội và phương tiện truyền thông với điều kiện tuân theo các quy định hướng dẫn, thì cơ hội được tự quyết của họ vị cản trở một cách nghiêm trọng. Trong bối cảnh tự do hóa kinh tế, chủ của Café Lặng được hưởng lợi từ việc đưa hình ảnh của quán như một không gian trải nghiệm mới và cởi mở trong khi các quan điểm về NNKH TP.HCM và người Điếc vẫn bị gạt ra ngoài lề.
|ĐIẾC| hay |KHIẾM THÍNH|: Các điều khoản ưu đãi và các diễn thuyết được nhà nước công nhận
Trong Chương 1, tôi mô tả những lần gặp gỡ đầu tiên với người Điếc và người không Điếc theo cách gọi tên một người hay một nhóm người. Những tương tác với học sinh của DAGD đã chứng minh tính nhất quán trong cách đề cập của người có sử dụng ký hiệu là người |ĐIẾC |, cũng như đề cập của họ với người không sử dụng ký hiệu là người|NGHE|,những người mà họ đã mô tả có các hoạt động xã hội khác biệt với |ĐIẾC| và |VĂN HOÁ NGƯỜI ĐIẾC |. Đây là những hình thức đề cập đáng mong đợi dựa trên những tương tác trước đây của tôi với những người Điếc trong và ngoài Hoa Kỳ. Họ cũng mong đợi rằng chương trình giảng dạy của DAGD về hướng dẫn NNKH TP.HCM sẽ bao gồm các môn học về lịch sử và văn hóa của nười Điếc trên thế giới. Việc những người sử dụng ký hiệu Việt Nam nhắc đến |ĐIẾC| và |VĂN HOÁ NGƯỜI ĐIẾC | không thật sự gây ấn tượng với tôi trong giai đoạn đầu tôi làm nghiên cứu, nơi cung cấp thông tin về nội dung của cuốn sách này (2007–2008). Tuy nhiên, khi tôi bắt đầu tham gia lớp học NNKH TP.HCM và có những buổi gặp gỡ với Trung tâm Phát triển tại TP.HCM, tôi đã rất bất ngờ khi thấy giám đốc HIU đề cập đến người Điếc là |K-H-I-Ế-M T-H-Í-N-H|9,đặc biệt là khi cố ấy tự nhận mình là người khiếm thính, hoặc bắt gặp người |NGHE| sử dụng một cách rộng rãi cụm từ khiếm thính trong các trường học chuyên biệt và các trung tâm đào tạo. Tôi nhận thấy điều này đặc biệt đáng kinh ngạc vì những nơi này có mối liên hệ chặt chẽ với học sinh Điếc và người Điếc, cũng như các phương tiện truyền hình và báo chí.
Một cơ hội tình cờ tại Câu lạc bộ Điếc TP.HCM được diễn ra sau sự kiện Café Lặng làm sáng tỏ các bối cảnh xã hội của |KHIẾM THÍNH | đối với các thành viên là người Điếc của HDC. Cuộc họp vào tháng 8 năm 2008 có sự tham gia của rất nhiều người từ TP.HCM và nhiều thành phố phía nam của TP.HCM.10 Trong quá trình diễn ra các buổi họp thường kỳ, một trong những lãnh đạo của HDC đề cập đến việc câu chuyện về Café Lặng được phát sóng trên truyền hình, không chỉ gần HDC mà còn được các thành viên của HDC thường xuyên ghé thăm, một số người cũng làm việc tại đó. Kể từ khi Mĩ và tôi có mặt tại Café Lặng trong quá trình ghi hình phân cảnh đó và cả hai đã có mặt trong cuộc họp của HDC vào sáng hôm đó, nên lãnh đạo của HDC đã nhờ chúng tôi kể cho các thành viên biết những gì đã xảy ra và những tình tiết trong thực tế khác như thế nào so với lúc chúng được lên sóng, sau khi chúng tôi kể lại toàn bộ câu chuyện cho anh ấy. Khi kể đến đoạn tôi từ chối yêu cầu của phỏng vấn là thay Điếc bằng khiếm thính, lãnh đạo của HDC nhận thấy vẻ bối rối trên gương mặt của các thành viên. Các lãnh đạo trả lời bằng cách hỏi khoảng 110 người tham dự ngày hôm đó liệu rằng họ có hiểu ý nghĩa của |K-H-I-Ế-M T-H-Í-N-H| và chúng khác như thế nào so với |ĐIẾC|. Xấp xỉ 25 người giơ tay để thể hiện rằng họ hiểu về sự khác biệt giữa hai từ này; một số người bình luận rằng |NGƯỜI NGHE GỌI CHÚNG TÔI LÀ NGƯỜI ĐIẾC NHƯNG TÔI KHÔNG HIỂU TẠI SAO| và |NGƯỜI ĐIẾC SỬ DỤNG ĐIẾC VÌ CHÚNG TÔI KÝ HIỆU, CÒN NGƯỜI KHIẾM THÍNH THÌ KHÔNG KÝ HIỆU|. Điều này cho thấy rằng, đối với những người tham dự ngày hôm đó, |K-H-I-Ế-M T-H-Í-N-H| là một thuật ngữ hoặc xa lạ hoặc không có ý nghĩa với 75% những người có mặt. Một vài người trong số họ cho biết về cảm nghĩ của họ về thuật ngữ này, theo như những gì mà bình luận này thể hiện: |TÔI ĐÃ THẤY TỪ NGỮ NÀY TRONG KÝ CÁC KÝ HIỆU DÀNH CHO CÁC TRƯỜNG CHUYÊN BIỆT NHƯNG TÔI KHÔNG BIẾT NÓ CÓ Ý NGHĨA GÌ|. Những người lãnh đạo Câu lạc bộ sau đó đã hỏi các thành viên của họ về cách họ mô tả bản thân như thế nào. Các thành viên đã thống nhất ký hiệu một cách không do dự: |ĐIẾC|. Các cuộc phỏng vấn với học sinh của DAGD đã cho thấy sự đồng tình của với thuật ngữ |ĐIẾC|; 17 trong số 19 người trả lời phỏng vấn không chấp nhận thuật ngữ khiếm thính, trong khi đó 2 người cho biết họ thích từ Điếc hơn nhưng không rõ khiếm thính và Điếc khác nhau như thế nào. Trong số 17 người trả lời phỏng vấn đã cung cấp thông tin cụ thể về trường hợp của khiếm thính, sau này được mô tả như một thuật ngữ phổ biến được sử dụng rộng rãi bởi người |NGHE [KHÔNG KÝ HIỆU]| trong xã hội nói chung, |CHÍNH PHỦ]| và nhân viên trường học chuyên biệt nói riêng. Các cuộc phỏng vấn với học sinh của DAGD cũng đều nhắc đến sự xuất hiện gần đây và/hoặc sự chấp nhận của người học lớn tuổi đối với thuật ngữ khiếm thính. Trong một cuộc phỏng vấn nọ, một học sinh của DAGD là Minh Hải (30 tuổi, 2009) nói với tôi rằng họ không thể nhớ nổi thuộc ngữ này được sử dụng phổ biến từ khi nào nhưng đó là một thuật ngữ mà họ mong sẽ biến mất dần dần: “|Khi người nghe tại Việt Nam được học về ngôn ngữ ký hiệu và văn hóa của người Điếc Việt Nam, họ sẽ không sử dụng từ khiếm thính nữa|.”
Các cuộc phỏng vấn với hiệu trưởng và giáo viên của các trường chuyên biệt, những người được cho là thân thuộc với các loại ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam và thực hành ngôn ngữ của người Điếc, cho thấy họ thích sử dụng thuật ngữ khiếm thính hơn. Đội ngũ nhân viên của trường chuyên biệt cũng sử dụng thuật ngữ Điếc; tuy nhiên, cách sử dụng này thường ứng với ngữ cảnh không tích cực, chẳng hạn như khi mô tả hai trong số những phàn nàn thường gặp nhất về sinh viên điếc: Sinh viên Điếc không có khả năng viết tiếng Việt, và cách ký hiệu của họ thể hiện lối ngữ pháp “lạc hậu”. Khi hỏi về hai thuật ngữ, hiệu trưởng của các trường chuyên biệt ngụ ý rằng việc sử dụng từ Điếc để gọi người Điếc là rất thô thiển. Hầu hết giáo viên của các trường chuyên biệt mà tôi đã có dịp nói chuyện (không ký hiệu), và thực tế, hầu hết các giáo viên của DAGD cũng nói rằng hai thuật ngữ “giống nhau về ý nghĩa” nhưng khiếm thính nghe vẫn “hay hơn”. Họ giải thích rằng “khiếm thính” “nghe lịch sự hơn” và tế nhị, theo hiệu trưởng của trường chuyên biệt Hy Vọng B, rằng người đó có khả năng vượt qua khó khăn của việc bị điếc.
Tại thời điểm thực hiện bài viết này, tôi chưa thấy bằng chứng về sự tồn tại của một cách thức quy ước nào, trong đó những người ký hiệu NNKH TP.HCM tương trưng cho khái niệm khiếm thính. Trong khi tiến hành nghiên cứu và làm việc với tư cách là một tư vấn viên và chuyên gia đào tạo cho Tổ chức Quan tâm Thế giới, tôi cũng không thấy người Điếc ở miền nam và niềm bắc Việt Nam chủ động ký hiệu thuật ngữ khiếm thính hay thảo luận về khiếm thính; tuy nhiên, hầu hết những người không Điếc tham gia nghiên cứu sử dụng thuật ngữ khiếm thính một cách thường xuyên, bất kể họ là người ký hiệu hay không ký hiệu. Ngược lại, chỉ khi tôi đặt những câu hỏi trực tiếp về vấn đề này thì những người Điếc tham gia nghiên cứu và đồng nghiệp của họ mới sử dụng thuật ngữ này, và thậm chí sau đó họ đã đánh vần nó hoặc sử dụng từ viết tắt hoặc sử dụng ký hiệu |KT|.
Ký hiệu cá biệt là hình thức được hình thành giữa các bên tương tác nhằm mục đích trao đổi thông tin tức thời (tức là nó không được quy ước từ trước). Khi các khái niệm có ý nghĩa, người ký hiệu, chẳng hạn như người nói, sẽ biểu thị một cách tượng trưng các khái niệm đó. Trong số những người Điếc ở miền Nam sử dụng ký hiệu được đề cập trong nghiên cứu này, thuật ngữ khiếm thính dường như không có ý nghĩa ở mức độ giao tiếp hàng ngày hay thể hiện sự trang trọng trong các tình huống (Ví dụ, tại các cuộc họp của HDC, cuộc họp giữa những người sử dụng lao động tiềm năng và các đối tác là tổ chức phi Chính phủ quốc tế). Tuy nhiên, một số người ký hiệu tạo ra ký hiệu cá biệt |KT| trong những ngữ cảnh mang tính trịnh trọng, như cách mà một người ký hiệu đã làm khi được VTV9 phỏng vấn về câu chuyện được công chúng quan tâm về các hoạt động của Câu lạc bộ Điếc vào tháng 12 năm 2010 (Cooper & Nguyễn, 2015). Hình 6.7 cho thấy một người ký hiệu thiết lập ký hiệu cá biệt |KT| với chữ cái |K| ở vị trí đầu tiên:
Hình 6.7: Chữ cái đầu tiên |K| trong ký hiệu cá biệt |KT [Khiếm Thính]
Các học viên người Điếc lớn tuổi của DAGD nói với tôi rằng, trong những năm đầu tiên của DAGD, các ấn phẩm định kỳ bắt đầu xuất bản các câu chuyện về họ một cách thường xuyên. Trước những bài phỏng vấn như vậy, các học viên của DAGD nói với tôi rằng, họ thường giải thích cho các nhà báo về sự khác biệt giữa tiếng Việt và NNKH TP.HCM và cũng yêu cầu những nhà báo đó hãy gọi họ là người Điếc trong các bài viết, chứ không phải khiếm thính. Tuy nhiên, sau khi các bài viết được đăng lên báo, phiên bản cuối cùng cũng hiếm khi nhắc đến NNKH TP.HCM hoặc gọi những người được phỏng vấn là người Điếc. Trong năm 2012 và 2013, một nhóm nhỏ các thành viên của HDC chủ trì một buổi giao lưu với các sinh viên của một trường cao đẳng tại địa phương, nhân viên làm việc tại tổ chức phi Chính phủ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Được mời trình bày tại một trong những buổi giao lưu này vào tháng 7 năm 2012, tôi vô cùng thích thú khi thấy phần đầu bài thuyết trình của các thành viên HDC trực tiếp đề cập tới những trải nghiệm của họ về sự khác biệt giữa |ĐIẾC| và |KHIẾM THÍNH|, nhưu được giới thiệu trong trang trình chiếu bên dưới mà các thành viên của HDC đã chuẩn bị cho buổi giao lưu (xem hình 6.8).
Hình 6.8. Trang trình chiếu về Sự Khác nhau giữa KHIẾM THÍNH và ĐIẾC.
Khá tương đồng với cách tôi mô tả (Xem thảo luận ở Chương 3) về sự khác nhau giữa Ký hiệu bổ trợ tiếng Việt và ký hiệu như là một phương thức giao tiếp chính, những người thuyết trình đã miêu tả đặc trưng của |K-H-I-Ế-M T-H-Í-N-H| phù hợp với thực hành ngôn ngữ của người |NGHE|, và các đặc trưng của |ĐIẾC| thì phù hợp và ca ngợi việc sử dụng thành thạo NNKH Việt Nam, bao gồm việc sử dụng các dấu hiệu ngữ pháp phi ngôn ngữ (tức là chuyển động trên khuôn mặt và cơ thể). Tiếp theo, tôi thảo luận về những cách mà người Điếc sử dụng các tuyên bố về NNKH Việt Nam and NNKH TP.HCM, bản sắc văn hóa Điếc, và quyền tự quyết của tập thể nhằm tạo ra sự thay đổi của toàn xã hội ở miền Nam Việt Nam..
Tổ chức xã hội của người Điếc và Quyền tự quyết trong nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tật
Trong phần này, tôi tập trung vào các hoạt động do Câu lạc bộ Người Điếc TP.HCM thực hiện nhằm giải quyết những bất bình đẳng xã hội nhằm giúp cho người Điếc Việt Nam gia nhập vào một thị trường còn nhiều rào cản và các vị trí có liên quan đến quan niệm về khuyết tật. Tuy nhiên, vào những thời điểm khác, họ không cho phép bản thân được giao lưu với thế giới bên ngoài, do liên quan đến các hệ tư tưởng tiêu cực xung quanh việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. Các hoạt động nổi bật này bao gồm thúc đẩy và tham gia đào tạo phiên dịch viên NNKH TP.HCM-tiếng Việt; nỗ lực vận động để được Nhà nước công nhận đối với HDC và các câu lạc bộ và hội người Điếc khác trong cả nước; đồng thời nỗ lực vận động để được Nhà nước công nhận NNKH TP.HCM và các NNKH Việt Nam khác.
Phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt
Tại một sự kiện ở Đồng Nai mà tôi tham dự, tiếng nhạc piano trang trọng kết hợp với phần trình bày của mỗi người, mỗi lời nhắc nhở và bình luận tương ứng đều tập trung vào những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc hướng đến trẻ em, người nghèo, người già và người có hoàn cảnh khó khăn. Hai học viên từ DAGD cũng đã được mời trình bày tại chương trình. .12 Trang (người sau này xuất hiện trên sự kiện “Kỷ niệm 310 năm tỉnh Đồng Nai”) đã kể lại một câu chuyện về cuộc đời của Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ từ một độc giả - không phải một phiên dịch viên, mà là một người kể lại câu chuyện khi cô ký hiệu. Sau đó trong chương trình, một trong những bạn học cùng lớp của Trang – người mà tôi gọi là Tấn – đã ký hiệu song song với bản thu âm bài hát bất hủ năm 1979 của Thuận Yến, mang tên “Bác Hồ một tình yêu bao la” (hình 6.9).
Hình 6.9. Màn biểu diễn nhạc phẩm mang tên Bác Hồ một tình yêu bao la bằng NNKH TP.HCM.
Khán giả gồm có quân nhân, một nhóm 10–15 sư cô, đồng nghiệp của các thí sinh (chủ yếu là các học giả) và học sinh, nhân viên của DAGD. Khi Tấn ký hiệu, tôi nhìn lướt qua một lượt trong căn phòng. Khán giả, những người đã từng ngồi sụp xuống ghế, giờ đang ngả hết người về phía trước, nghển cổ lên nhìn Tấn, một số người trong số họ còn rơi lệ.
Xuyên suốt chương trình, hai phiên dịch viên ký hiệu NNKH TP.HCM-tiếng Việt từ DAGD cũng thay phiên nhau dịch trên sân khấu. Theo các phiên dịch viên ký hiệu NNKH TP.HCM-tiếng Việt (một trong số những người điều hành DAGD và một trợ lý hành chính), sự xuất hiện của những người Điếc ký hiệu và phiên dịch viên dường như đã gây sự ngạc nhiên đối với cả khán giả có mặt tại chương trình và khán giả xem tại nhà đến mức Đài truyền hình tỉnh Đồng Nai đã mời các phiên dịch viên phiên dịch cho một chương trình truyền hình đang sản xuất mang tên Gặp Gỡ Những Anh Hùng Thầm Lặng, được phát sóng vào 26/7/2008, trong một tuần kể từ buổi phát sóng đầu tiên. Trọng tâm của chương trình này là những người 60-70 tuổi, họ kể những câu chuyện và ký ức từ thời chiến mà trước đây họ chưa từng có dịp được kể lại hoặc được xã hội biết đến. Trong suốt quá trình phát sóng chương trình, những khán giả là người nghe đã gọi điện đến trường quay của đài truyền hình, nói rằng, “Tôi đang xem gì đây? Tôi không biết nó là gì, nhưng tôi thấy rất thích thú!” (liên hệ với phiên dịch viên). Phản ứng của người xem (Tôi không biết nó là gì, nhưng tôi thấy rất thích thú) hẳn phải được đánh giá dựa trên chính những trải nghiệm của người đó với các nhiệm vụ hiện đại hóa đất nước và những chủ đề của chương trình về thuộc địa và sự chiếm đóng của đế quốc Mỹ, sự hy sinh của cả dân tộc, sự lãnh đạo phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang diễn ra. Trong trường hợp này, phản hồi tích cực của người xem đối với “nó” (tức là NNKH TP.HCM) đã cho thấy tác động của thực tiễn được thể hiện theo ngữ cảnh, đối với triển vọng về một đất nước xã hội chủ nghĩa, cũng như triển vọng về sự phục hồi thông qua công nghệ (truyền hình) và các hình thức chuyên môn mới (dịch thuật) (hình 6.10 (a) và (b)).
Hình 6.10, phần (a) và (b): NNKH TP.HCM được phiên dịch trên Chương trình Truyền hình, Gặp gỡ những anh hùng thầm lặng. Hình 6.10 (a) (trái): Chương trình Truyền hình với Phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt tại góc dưới phải màn hình. Hình 6.10 (b) (phải): Hai phiên dịch viên NNKH TP.HCM-tiếng Việt đang xem Chương trình Truyền hình được phiên dịch.
Những trường hợp này tương tự như trường hợp của người Nepal được Hoffman-Dilloway đề cập, trong đó nguyên nhân gây ra tật điếc là do nghiệp chướng và theo đó, một vị thế khởi đầu mới của người đ/Điếc và ngôn ngữ ký hiệu “giúp cho người nghe trở nên hiện đại và bikashi (phát triển)” (2011, tr. 374). Trong những ví dụ về Hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và chương trình truyền hình Gặp gỡ những anh hùng thầm lặng, việc sử dụng NNKH TP.HCM của người Điếc và phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt đều được thực hiện dưới sự giúp đỡ của các nhà lãnh đạo chính trị và xã hội. Bên cạnh đó, quốc gia – như trong ví dụ của Hoffman-Dilloway – hiện đại, cũng như cởi mở, theo nghĩa đen bao gồm những con người và những câu chuyện đã bị gạt sang bên lề của xã hội.
Theo phân tích của Hoffman-Dilloway, sự quan tâm của khán giả là người |NGHE| đối với việc sử dụng NNKH TP.HCM của người Điếc và người không Điếc chủ yếu “dựa vào sự liên kết ký hiệu với người Điếc”, có nhiều tác động khác nhau trong bối cảnh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giữa người Điếc và người không Điếc (Sđd.). Những tác động như vậy được tạo điều kiện thuận lợi trong bối cảnh mà khả năng đa ngôn ngữ của những người không Điếc là một kỹ năng được đánh giá cao trong thị trường định hướng cung ứng dịch vụ mới, trong đó nhóm lao động được tìm kiếm nhiều nhất là những người có thể đáp ứng được hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của Việt Nam bằng ngôn ngữ của khách du lịch, bao gồm cả du khách Điếc. Chính trong bối cảnh đó, chủ nghĩa đa ngôn ngữ cũng đã trở thành một biểu tượng của kiến thức toàn cầu, tính vận động và tiềm năng du lịch, học tập hoặc định cư nước ngoài. Do đó, trong khi tôi quan sát những người không Điếc đánh giá nhau về khả năng đa ngôn ngữ và tự đánh giá về bản thân mình, tôi không thấy họ nhắc đến sự đa ngôn ngữ ở người Điếc. Ví dụ, tôi đã mô tả những lần tham gia các lớp học NNKH TP.HCM của Trung tâm Phát triển và DAGD. Ở cả hai địa điểm, các học viên thường nhận xét tôi về khả năng ký hiệu của tôi và thậm chí sẽ đặt câu hỏi trực tiếp về cấu trúc của NNKH TP.HCM cho tôi hơn là cho giáo viên của họ – người cũng có mặt tại lớp học. Trong những trường hợp này, tôi đã cố gắng chuyển sự chú ý của các bạn học cùng lớp đến giáo viên dạy NNKH TP.HCM của chúng tôi; tuy nhiên, sau khi họ quan sát các cuộc trò chuyện của tôi với giáo viên dạy NNKH TP.HCM, các bạn cùng lớp của tôi thường nhận xét về kỹ năng ngôn ngữ của tôi – một người không sử dụng NNKH TP.HCM như là một thứ ngôn ngữ bản địa, hơn là về kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ của giáo viên Điếc khi trò chuyện với tôi. Điều đó có nghĩa là, họ cho rằng khả năng ký hiệu của tôi khá xuất sắc, nhưng dường như họ không thực sự đánh giá một thực tế rằng, việc tôi có khả năng giao tiếp hiệu quả chỉ vì giáo viên đã tạo điều kiện thuận lợi tối đa để tôi lĩnh hội và tiếp thu ngôn ngữ trong suốt quá trình trao đổi.
Nâng cao hệ tư tưởng về khả năng sử dụng song ngữ NNKH TP.HCM-tiếng Việt của người Điếc cũng góp phần vào việc nhóm này kiểm soát sự lựa chọn và kiểm soát chất lượng việc làm mới về NNKH TP.HCM-tiếng Việt do Chính phủ hỗ trợ, điển hình nhất là chương trình tin tức được phiên dịch bằng ngôn ngữ ký hiệu, được phát sóng hàng ngày ở cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam từ năm 2010. Mối quan tâm của các nhà lãnh đạo người Điếc về chất lượng phiên dịch – tiếp cận ngôn ngữ – được minh chứng trong yêu cầu của HDC trong những cuộc họp với những người sản xuất chương trình HTV9 và bản kiến nghị năm 2010 lên ban sản xuất các chương trình phát sóng về việc thuê người phiên dịch NNKH TP.HCM. Khi cuốn sách này được phát hành, chính những phiên dịch viên này vẫn đang làm việc cho VTV9, khiến cho những người Điếc ở miền Nam đều phản hồi rằng họ không thể hiểu được và do đó họ cũng không xem các chương trình thời sự đã “được phiên dịch”.
Mặc dù ngày càng quan tâm đến NNKH TP.HCM bên ngoài các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập, nhưng hiện tại Việt Nam không có chương trình nào cung cấp các bài giảng về NNKH TP.HCM (hoặc các ngôn ngữ ký NNKH Việt Nam khác) và không có chương trình đào tạp để nghiên cứu về phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu/ngôn ngữ nói. Mặc dù được dự kiến là một trong ba cấu thành cốt lõi của DAGD, chương trình đào tạo phiên dịch viên NNKH TP.HCM-tiếng Việt đã không thể trở thành hiện thực cho đến cuối năm 2012, và sau đó chỉ dành cho các nhân viên nội bộ. Vào mùa hè năm 2015, DAGD đã mở các khóa đào tạo nội cho một số ít phiên dịch viên đã qua đào tạo của Tổ chức Quan tâm Thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn 2009 với một trong những người điều hành DAGD đã tiết lộ rằng ngành phiên dịch đã không được hình thành sớm hơn do một số yếu tố, bao gồm việc thiếu người có khả năng ký hiệu thành thạo để đào tạo nâng cao, thiếu giáo viên đào tạo phiên dịch viên, và thiếu các nguồn lực tài chính công để chi trả cho các dịch vụ phiên dịch.
Từ năm 2008 đến 2016, phiên dịch NNKH-tiếng Việt bắt đầu được công nhận như là một chuyên ngành13. Các phiên dịch viên ở địa phương cũng cho biết thù lao trả cho công sức của họ đã thay đổi đáng kể, như hợp đồng ký với VTV9. Năm 2009, một trong những người điều hành DAGD đã cho biết Việt Nam có khoản 4-5 người làm phiên dịch ở miền Bắc, trong khi ở miền Nam khoảng 10 người làm phiên dịch viên; tuy nhiên, tại thời điểm đó, những người điều hành DAGD đánh giá tính chuyên nghiệp của các phiên dịch viên như sau:
Hầu hết các phiên dịch viên ở Việt Nam – chúng tôi được gọi là phiên dịch viên – nhưng bản thân chúng tôi biết rằng chúng tôi chưa thực sự là phiên dịch viên vì chúng tôi không được đào tạo. Chúng tôi cũng không có chứng chỉ. Chúng tôi làm điều này bởi vì chúng tôi biết ngôn ngữ ký hiệu và chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể giúp cho người nghe và người Điếc giao tiếp với nhau (Cooper,2008).
Chính trong bối cảnh đó, HDC đã hợp tác với giám đốc của một trung tâm tại TP.HCM cho nghiên cứu và giáo dục trẻ khuyết tật, những người điều hành và tôi để tổ chức một buổi hội thảo đào tạo phiên dịch viên ngôn ngữ ký hiệu/ngôn ngữ nói vào tháng 2 năm 2009. Phần tiếp theo mô tả bối cảnh và kết quả của hội thảo này.
Hội Thảo: Phiên dịch viên Ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 8 năm 2009, các lãnh đạo của HDC đã thảo luận về việc tổ chức một hội thảo về phiên dịch. Họ tìm đến tôi và hỏi liệu tôi có thể tham gia giảng chúng được không. Tôi đã phản hồi lại rằng tôi mong họ có thể tự giảng dạy vì họ đã có kinh nghiệm giảng dạy bằng tiếng Việt cho người |NGHE| cách ký hiệu và qua cách họ trao đổi hàng ngày liên quan đến NNKH TP.HCM và tiếng Việt, cũng như cách diễn giải. Tôi đã đồng ý tham gia cùng họ trong quá trình chuẩn bị và trình bày nội dung về các lĩnh vực mà họ cho là hữu ích. Trong suốt hai tháng chuẩn bị, chúng tôi gặp nhau hai đến ba lần mỗi lần và gần ba tiếng đồng hồ mỗi lần. Chúng tôi thảo luận về nhũng vấn đề chẳng hạn như nội dung các lĩnh vực mà họ muốn đề cập, những người mà họ có thể mời và cách họ muốn tiếp cận những người tham gia tiềm năng, và gửi lời mời qua email chính là cách để họ sàng lọc những người tham gia tiềm năng mà họ chưa từng quen biết.
Được tổ chức vào cuối tuần đầu tiên sau kỳ nghỉ Tết, hội thảo là một sự kiến kéo dài trong hai ngày với sự tham gia của gần bốn mươi người14.
Tiếp the, tôi mô tả chi tiết hơn về việc thông báo sự kiện hội thảo và lựa chọn người tham gia. Tôi không có ý định bàn luận sâu về công tác hậu cần. Tuy nhiên, những hoạt động này đảm bảo chất lượng tham gia hội thảo liên quan đến trình độ về ngôn ngữ và thái độ đối với chủ đề và cấu trúc của hội thảo. Họ cũng đảm bảo về sự tham gia của các giảng viên Điếc dạy NNKH TP.HCM đã được công nhận và những người Điếc khác đã được đào tạo về cấu trúc và phân tích về NNKH TP.HCM như những cá nhân thích hợp nhất để đánh giá trình độ ngôn ngữ. Cuối cùng, họ đảm bảo sự tham gia của các giảng viên Điếc dạy NNKH TP.HCM đã được công nhận (những người phù hợp cho việc tiến hành đào tạo liên quan đến các phương tiện giảng dạy về ngôn ngữ và văn hóa xã hội, cũng như phiên dịch sang tiếng Việt). Trong khi đó vào những năm 2009, những ý tưởng về sau này đã được xây dựng trong DAGD, chẳng hạn như những ý tưởng (hình thái xã hội) vẫn còn xa lạ với hầu hết những người ngoài DAGD và chưa được ban giám hiệu của các trường học chuyên biệt phê duyệt. Trong bối cảnh này, công tác hậu cần có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam và có thể trong các bối cảnh khác có thể đòi hỏi thực hiện công việc thông qua các kênh phân cấp xã hội và/hoặc quan liêu theo những cách cụ thể. Tiếp theo, trước tiên tôi thảo luận về công tác hậu cần cho việc sàng lọc những người tham dự hội thảo tiềm năng và sau đó mô tả về hội thảo.
Để thông báo về hội thảo, một người điều hành của DAGD đã lập một tài khoản email để gửi thư từ liên quan đến hội thảo, sau đó chúng tôi soạn thảo thông báo về hội thảo đào tạo. Trong cuộc họp đó, người điều hành DAGD đã quyết định rằng nên tổ chức hội thảo trên cơ sở “có giấy mời” để đảm bảo rằng những người tham dự không chỉ đơn thuần là người hiếu kỳ mà còn biết NNKH TP.HCM ở một mức độ nào đó và cũng trực tiếp tham gia với những người Điếc. Thông báo bao gồm yêu cầu rằng những người tham gia phải liên hệ với người điều hành DAGD để đánh giá mức độ phù hợp của việc tham gia.
Một tuần sau khi chúng tôi gửi thông báo về hội thảo, chúng tôi không nhận được bất kỳ phản hồi nào. Một tuần tiếp theo, tôi có một cuộc gặp gỡ đã hẹn trước với hiệu trưởng của trường Hy Vọng A. Trong cuộc hẹn đó, tôi đã hỏi xem cô ấy đã nhận được thông báo chưa. Cô ấy nói rằng cô ấy đã nhận được nhưng không phản hồi vì “chúng tôi [nhân viên của trường Hy Vọng A] không biết nhiều về ngôn ngữ ký hiệu cho lắm, vì vậy nó không phù hợp với chúng tôi.” Tôi giải thích rằng HDC và DAGD đã biết rằng mỗi trường học chuyên biệt sử dụng các ký hiệu khác nhau. Cô tỏ ra ngạc nhiên và cũng thừa nhận rằng thực tế đúng là như vậy. Tôi nói rằng hội thảo nhằm gắn kết các trường lại với nhau để họ có thể chia sẻ kiến thức và ý tưởng của mình. Họ cũng có thể học một số lý thuyết và kỹ thuật liên quan đến phiên dịch ký hiệu/lời nói, mà họ có thể đã sử dụng nhưng không biết rằng mình đang làm như vậy. Cô ấy nói rằng cô ấy muốn tham dự và đề xuất hai giáo viên của cô ấy làm người tham gia tiềm năng.
Do tôi không phải là người sử dụng NNKH TP.HCM tự nhiên và cũng không được đào tạo về giảng dạy ngôn ngữ ký hiệu hoặc ngôn ngữ học, tôi đã hẹn với hiệu trưởng của trường Hy Vọng A rằng sẽ quay trở lại vào tuần tới cho một cuộc gặp gỡ tiếp theo để một giảng viên NNKH TP.HCM (Người Điếc Việt Nam) có thể đánh giá mức độ ký hiệu thành thạo của những người tham gia tiềm năng và xác nhận đăng ký của họ. Dự liệu rằng hiệu trưởng của các trường khác có thể phản ứng với thông báo hội thảo với những lo lắng tương tự như hiệu trưởng của trường Hy Vọng A, tôi đã thảo luận tình hình này với lãnh đạo HDC và Mĩ. (Kể từ tháng 1 năm 2009, Mĩ đã tự nguyện làm một trong hai phiên dịch viên của HDC và thường xuyên làm việc với tôi với tư cách là phiên dịch viên Việt-Anh.) Tất cả chúng tôi đều đồng ý rằng chúng tôi muốn tiếp cận bốn trường còn lại trong tâm thế luôn chào đón họ tham gia hội thảo ngay cả khi họ không thật sự tự tin vào trình độ NNKH TP.HCM của mình. Đồng thời, chúng tôi muốn đảm bảo với họ rằng họ sẽ được tiếp cận các hoạt động của hội thảo.
Trong khi chúng tôi đã cơ cấu các hoạt động hội thảo được thực hiện chủ yếu bằng NNKH TP.HCM, với khoảng 75% hoạt động được diễn giải sang tiếng Việt, điều cần thiết là người tham dự tối thiểu phải có kỹ năng đàm thoại ở cả hai phương thức tiếp thu và đưa ra ý kiến (hiểu và diễn đạt NNKH TP.HCM). Nếu không có những kỹ năng đó, người tham dự sẽ không thể tiếp cận được cái tài liệu về ngôn ngữ học so sánh và NNKH TP.HCM hoặc diễn giải ký hiệu/lời nói về các phương pháp lý thuyết và thực hành. Điều quan trọng nhất là, họ sẽ không được lắng nghe những chia sẻ của các lãnh đạo HDC về những trải nghiệm của họ khi là học sinh trường chuyên biệt, đặc biệt là cảm giác bị gạt ra ngoài lề xã hội. Trên thực tế, nhiều người trong số các lãnh đạo HDC đã bày tỏ tình cảm của mình với các giáo viên cũ của họ (một số người cuối cùng sẽ tham dự hội thảo).
Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi đã quyết định đặt lịch hẹn với hiệu trưởng của các trường còn lại – Hy Vọng B, Hy Vọng C, DC1 và DC2 – và đề xuất họ mời giáo viên và/hoặc nhân viên mà họ cho rằng có kỹ năng ngôn ngữ ký hiệu tốt nhất. Chúng tôi đã làm điều này thông qua các cuộc điện thoại, vì các hiệu trưởng dường như không muốn thảo luận về hội thảo qua email, do họ không trả lời email về hội thảo trong khi vẫn trả lời các email không liên quan khác.
Sau đó, chúng tôi quyết định lập một nhóm để tiến hành các cuộc hẹn đã sàng lọc. Các thành viên sẽ bao gồm một giáo viên giảng dạy NNKH TP.HCM (người sẽ giải thích chương trình cho hội thảo và quan sát khả năng giao tiếp của những người tham gia tiềm năng), Mĩ (người sẽ hỗ trợ giao tiếp giữa NNKH TP.HCM với tiếng Việt và giữa tiếng Anh với tiếng Việt khi cần thiết) và tôi (tôi sẽ giải thích cả cơ sở lý luận của hội thảo và mong đợi về kinh nghiệm/kết quả học tập của người tham gia). Hai trong số năm hiệu trưởng và nhân viên trong trường của họ sử dụng ký hiệu hỗ trợ tiếng Việt (xem Chương 3); hai hiệu trưởng không sử dụng ký hiệu; và một hiệu trưởng (Hy Vọng C) đã từ chối cuộc hẹn để bàn về buổi hội thảo và tham gia hội thảo (của chính cô ấy và nhân viên trường của cô ấy). Do đó, nhóm ba thành viên của chúng tôi đã tiến hành bốn cuộc hẹn sàng lọc. Những cuộc gặp gỡ này kết thúc khi giảng viên NNKH TP.HCM phỏng vấn từng ứng viên tiềm năng bằng cách hỏi một số câu hỏi về lý lịch, đào tạo, sở thích của ứng viên trong hội thảo và cam kết tham dự toàn bộ hội thảo (cả cuối tuần). Đối với mỗi cuộc hẹn đến trường, chúng tôi nhận thấy rằng các hiệu trưởng và giáo viên (1) có quan tâm đến hội thảo nhưng nghĩ rằng họ đã biết đủ rồi; (2) không phù hợp vì họ tự nhận mình là thiếu khả năng ký hiệu, nhưng họ cũng đã biết; và (3) sẵn sàng để giáo viên đã được đào tạo về NNKH TP.HCM đánh giá khả năng ký hiệu của họ. Cuối cùng, cả bốn trường đã quyết định tham gia. Những người tham gia tiềm năng là hiệu trưởng và hiệu phó (chúng tôi đã mời dù họ có biết ký hiệu hay không), với khoảng hơn 40 người có mặt; 23 giáo viên và hiệu trưởng của trường học chuyên biệt (tất cả đều có thể sử dụng tiếng Việt có hỗ trợ ký hiệu (viết tắt là Tiếng Việt có hỗ trợ ký hiệu) ở một mức độ nào đó); mười lăm sinh viên tốt nghiệp DAGD, tất cả đều tích cực thể hiện các vai trò khác nhau trong hội thảo; hai nhà nghiên cứu ngôn ngữ, một nhà ngôn ngữ học và tôi; hai phiên dịch viên (một người làm việc thông qua NNKH TP.HCM-tiếng Việt và người kia, tiếng Việt-Anh); và giám đốc trung tâm nghiên cứu và giáo dục trẻ khuyết tật, người đã tổ chức sự kiện tại cơ sở của cô.
Sau khi có thông tin về hội thảo sắp tới, những người không Điếc bắt đầu tìm đến HDC để yêu cầu tham gia. Những cá nhân này bao gồm nhân viên trường học chuyên biệt mà chúng tôi chưa gặp trong các cuộc hẹn đã được sàng lọc, con cái và bạn bè của những người Điếc lớn tuổi, và những người chỉ đơn giản quan tâm đến chủ đề này. Vì sự quan tâm này, chúng tôi đã tổ chức cuộc đánh giá và đăng ký mở rộng trong các cuộc họp hàng tuần của HDC: Chỉ có hai người xuất hiện tuy nhiên chưa đạt yêu cầu về mức độ thành thạo ngôn ngữ ký hiệu. Từ đó, chúng tôi phỏng đoán rằng, ngoài những xung đột về tiến trình thông thường, một số người chỉ đơn giản là tò mò về lĩnh vực mới nổi như phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt; tuy nhiên, sự tò mò này đòi hỏi nhiều hơn một cuộc hội thảo không thường xuyên.
Hội thảo bao gồm hai ngày hoạt động, bắt đầu với lời mời của Câu lạc bộ Người Điếc TP.HCM đối với những người tham dự cuộc họp thường kỳ vào sáng thứ Bảy từ 9 đến 11 giờ sáng. Sau bữa trưa, hội thảo khai mạc với phát biểu chào mừng từ chủ tịch HDC và người điều hành chương trình, người đã cho phép Câu lạc bộ Người Điếc TP.HCM và DAGD sử dụng không gian của cô. Ngày thứ nhất bao gồm bốn bài thuyết trình và một hoạt động: Thứ nhất, phần giới thiệu của hai học sinh cuối cấp học NNKH TP.HCM của DAGD và bản dịch các trang trình chiếu (PowerPoint) sang tiếng Việt đã mô tả trọng tâm của hội thảo (Những người Điếc Việt Nam sử dụng NNKH). Các bài thuyết trình này được đặt trong bối cảnh lịch sử ngắn gọn về giáo dục người Điếc ở Việt Nam, bao gồm sự tiên phong của người nghe, những người đã học NNKH và phiên dịch cho người Điếc và người Điếc mà không nhận thù lao. Trong phần trình bày tiếp theo, với tiêu đề Lịch sử các mô hình phiên dịch, tôi tập trung vào các khái niệm về người Điếc và ngôn ngữ ký hiệu (mô hình y tế, mô hình xã hội, mô hình ngôn ngữ) và mời những người tham gia xác định những mô hình họ đã quan sát được hoặc áp dụng tại Việt Nam. Phần trình bày sau đó, có tiêu đề Kinh nghiệm hòa nhập xã hội của người Điếc tại Việt Nam, bao gồm 8–10 câu chuyện do những người ký hiệu khác nhau đưa ra, những người này bày tỏ cảm xúc liên quan đến việc bị từ chối sử dụng ngôn ngữ ký hiệu ở nhà và ở trường. Sau đó, một hoạt động “phá băng” nhằm gia tăng tính hòa nhập mang tên Visual World, đã sử dụng các thẻ màu mà những người tham gia có thể đổi lấy những món quà nhỏ. Tiếp theo là bài giảng chính trong ngày: Cùng với một số học sinh cuối cấp của DAGD là những người thuyết trình, người điều hành DAGD đã thảo luận về NNKH TP.HCM.
Bài giảng của người điều hành DAGD đã thực sự gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các hiệu trưởng và giáo viên của trường chuyên biệt đến mức độ người điều hành của DAGD đồng ý quay lại vào ngày hôm sau để tiếp tục mô tả cấu trúc của NNKH TP.HCM và so sánh nó với tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ khác (ngôn ngữ nói và ký hiệu). Tiếp theo là ba phân đoạn hội thảo khác: (1) Cấu trúc và Đặc điểm của bài giảng NNKH TP.HCM, được trình bày bởi hai giáo viên giảng dạy NNKH TP.HCM, sau đó là những người tham gia hội thảo đã xác định những yếu tố này trong một bài thuyết trình về NNKH TP.HCM; (2) Kỹ thuật đồng phiên dịch, nơi tôi đã thảo luận, sử dụng cùng một video clip, cấu trúc diễn thuyết, phân loại và các kỹ thuật khác mà người ký hiệu và phiên dịch sử dụng; (3) trong Phân tích Văn bản I và Phân tích Văn bản II, tôi đã trình bày hai bài giảng ngắn về phân tích văn bản NNKH TP.HCM và Tiếng Việt, theo sau đó là các hoạt động nhóm. Chúng tôi kết thúc hội thảo bằng cách lấy ý kiến của những người tham gia. Những bình luận này (cả trong và sau hội thảo) cho thấy một loạt các tác động đến quan điểm của người nghe về người Điếc, ngôn ngữ ký hiệu và nhu cầu mang tính cố định (như các phân đoạn trong đã được đề xuất trong Chương 5).
Kết thúc hội thảo phiên dịch, hiệu trưởng trường Hy Vọng A đã mở đầu phần bình luận bằng cách nói (bằng tiếng Việt, còn Mĩ thì dịch cho tôi nghe): “Cuối tuần này, tôi đã học được nhiều điều trong hội thảo mà trước đây tôi chưa có cơ hội được học. Nhưng chúng tôi cần hội thảo này cho giáo viên của chúng tôi. Những giáo viên hàng ngày trực tiếp giảng dạy cho học sinh Điếc lại không biết được thông tin này”. Sau đó, cô ấy quay sang các lãnh đạo của HDC và các học viên của DAGD, ngồi thành hàng bên phải cô ấy và ký hiệu với họ: “| Hôm nay các em đã dạy tôi rất nhiều điều. Một số em là học sinh của tôi [tại trường Hy Vọng A]. Tôi muốn nói rằng tôi xin lỗi. Tôi đã không hiểu về NNKH TP.HCM. Tôi hy vọng rằng các em sẽ đến trường của tôi và nói chuyện với học sinh của tôi, dạy cho học sinh của tôi|.” Khoảng sáu người tham gia khác đã phát biểu, cảm ơn những người thuyết trình về hội thảo và hỏi khi nào hội thảo tiếp theo sẽ diễn ra. Sau đó, họ yêu cầu, nếu có hội thảo tiếp theo, nên tập trung vào các phương pháp giảng dạy hơn là phiên dịch; họ nói rằng họ cần các phương tiện giảng dạy cho lớp học ngay lập tức, còn việc đào tạo phiên dịch viên có thể học sau15 Các cuộc phỏng vấn tiếp theo với các hiệu trưởng của trường Hy Vọng A và Hy Vọng B, cũng như những người đồng sáng lập HDC, cho thấy những mối quan tâm trùng lặp và trái ngược nhau về nhu cầu đào tạo trong tương lai (sẽ thảo luận ở phần sau).
Tôi đã gặp các hiệu trưởng của trường Hy Vọng A và Hy Vọng B khoảng một tuần sau hội thảo phiên dịch. Vào thời điểm đó, cả hai hiệu trưởng thông báo với tôi rằng họ đã liên lạc với nhau, cũng như người quản lý mảng giáo dục hoà nhập (xem Chương 5), để thảo luận về việc mời người điều hành DAGD tổ chức hội thảo đào tạo giáo viên. Hiệu trưởng của Hy Vọng A đã bày tỏ quan điểm đã thay đổi về ngôn ngữ ký hiệu và đào tạo giáo viên theo cách như sau:
Đối với những người đứng đầu của trường học như chúng tôi, chúng tôi không có cơ hội được nghiên cứu sâu về việc giáo dục trẻ Điếc, vì vậy chúng tôi không thể hiểu được một cách rõ ràng. Đó là điều đầu tiên. Và chương trình phiên dịch – điều này thật sự rất cần thiết . . .
Chúng tôi cần được đào tạo. Khi người bình thường nhìn thấy thứ gì đó mà người Điếc viết, chỉ cần hai hoặc ba cụm từ, chúng tôi biết ai là người đã viết nó – người Điếc hay người nghe. Chúng tôi có thể biết được ngay. Chúng tôi thấy sự khác biệt trong cách họ viết, nhưng chúng tôi không hiểu tại sao họ lại viết theo cách này [nhấn mạnh trong bản gốc]. [Người điều hành DAGD] đã giải thích và bây giờ thì chúng tôi đã hiểu.
Vì vậy, [trước đây] khi chúng tôi đặt câu hỏi trong lớp và học sinh trả lời sai, chúng tôi không biết tại sao. [Giáo viên] chúng tôi có thói quen nói “người Điếc ngược” hoặc “họ đã nói sai cách”. Vì vậy, ví dụ, khi [người điều hành DAGD] cho chúng tôi xem một câu văn tiếng Nhật và hỏi chúng tôi rằng liệu người Nhật có nói sai cách hay không – nhưng, tất nhiên, chúng tôi không nói đó là “cách nói sai” – mà chúng tôi nói rằng họ nói tiếng Nhật! Điều này cũng đúng với ngôn ngữ ký hiệu.
Hiệu trưởng của trường Hy Vọng B đã đưa ra những nhận xét rất giống nhau về sự thay đổi trong quan điểm của chính cô ấy về ngôn ngữ ký hiệu và sự cần thiết của việc đào tạo giáo viên:
Ví dụ của [người điều hành DAGD] đã đưa ra quan điểm rằng chúng tôi sẽ không bao giờ nói tiếng Nhật là “sai ngữ pháp”. Vì vậy, điều đó có nghĩa là nếu ngữ pháp của Người Điếc là đúng – điều này nghĩa là không có vấn đề gì cả – chúng ta phải chấp nhận nó. Chúng ta không nên sửa chúng. Trước đây, chúng tôi đã cố sửa chúng lại cho đúng. Chúng tôi đã nói với họ rằng họ đã sai. Chúng ta không nên nói với họ rằng họ đã sai. Nhưng vấn đề là chúng ta phải biết cách dạy họ viết tiếng Việt. Bởi vì chúng ta khác nhau về ngữ pháp. Chúng ta không biết cách chuyển từ ngữ pháp của ngôn ngữ ký hiệu sang ngữ pháp của tiếng Việt. Đó là vấn đề của hiện tại.
Tôi đáp lời: “Tuy nhiên vẫn có nhiều người cho rằng không nên dùng ngôn ngữ ký hiệu để dạy học sinh Điếc. Bạn sẽ nói gì với họ?” Hiệu trưởng trường Hy Vọng B trả lời rằng: “Cách chúng ta thuyết phục giáo viên là đưa những người Điếc đến gặp họ và nói chuyện như chúng ta đang làm, sau đó hỏi người Điếc xem họ có hiểu những gì chúng ta vừa nói không. Chúng ta phải trao đổi trực tiếp với giáo viên”. Tôi tiếp tục hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu giáo viên nói rằng học sinh của cô ấy có khả năng hiểu rất tốt?” Hiệu trưởng trả lời: “Không! Họ không hiểu. Họ không hiểu đâu… bởi vì tôi sẽ nhìn vào khuôn mặt [học sinh Điếc] của họ! Các giáo viên phải học, và họ phải chấp nhận điều này”. Hiệu trưởng tiếp tục mô tả cách bà mong muốn các giảng viên NNKH TP.HCM từ DAGD sẽ hướng dẫn các giáo viên của bà cách ký hiệu và mô tả cách một trong những học sinh của bà – Minh Hải – đã “mở mang đầu óc cho tôi”; tuy nhiên, cô cho biết thêm, cô không thể mời thầy về dạy vì giáo viên NNKH TP.HCM không có chứng chỉ đại học nên nhà nước sẽ không thể bồi hoàn cho nhà trường.
Hiện tại, mtất cả các trường học không sử dụng nhiều ngôn ngữ ký hiệu. Vì vậy, họ lo lắng rằng nếu tôi không biết nhiều về ngôn ngữ ký hiệu, thì tôi không thể phiên dịch. Đúng vậy. Do đó, chúng tôi rất muốn học ngôn ngữ ký hiệu. Sau đó, chúng ta học cách phiên dịch. Đầu tiên hãy cứ nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu, và khi chúng ta biết nhiều hơn, thì mới học sang phiên dịch. Tôi nghĩ điều đó là đúng. Trong tương lai, chẳng hạn [lấy giấy], giả sử bạn muốn TP.HCM có nhiều thông dịch viên cho trẻ Điếc. Trong 10 năm [cô ấy vẽ một đường ngang trên trang và viết “10 năm” ở đầu dòng bên phải, sau đó chia đôi đường ngang bằng một đường thẳng đứng]. Vì vậy, đầu tiên, họ học ngôn ngữ ký hiệu trong 5 năm (cô ấy vạch đường ngang từ đầu đến điểm giữa – đây là 5 năm – sau đó, họ mới sẵn sàng để [học] phiên dịch (cô ấy theo dõi từ mốc 5 năm đến mốc 10 năm với cây bút của cô ấy). Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi.
Trong một cuộc phỏng vấn nhóm gồm chín lãnh đạo của các Câu lạc bộ Điếc tại TP.HCM và học sinh cuối cấp, những người đã đồng chủ trì và trình bày hội thảo phiên dịch, tất cả đều đồng ý rằng giáo viên các trường chuyên biệt cần được đào tạo về cách sử dụng NNKH TP.HCM và phương pháp giảng dạy trực quan. Tuy nhiên, thay vì trì hoãn đào tạo phiên dịch cho đến khi các giáo viên trường chuyên biệt này đã sử dụng được ở một mức độ trôi chảy nhất định (như là một trong những người điều hành của DAGD đã đề nghị), các giảng viên NNKH TP.HCM nói rằng họ muốn các giáo viên trường chuyên biệt tiếp xúc với các phương pháp phiên dịch sớm hơn, không phân biệt trình độ, để họ có thể bắt đầu ứng dụng NNKH TP.HCM và các kỹ năng thông dịch trong các cuộc họp của trường và các cuộc họp với khách đến thăm trường.
Họ cũng có một quan điểm khác về những người có thể trở thành những học sinh giỏi nhất về NNKH TP.HCM và phiên dịch: Những người chưa hề quen với hệ thống trường học chuyên biệt. Trang nói:
| Các giáo viên của trường chuyên biệt gặp khó khăn khi học ngôn ngữ ký hiệu. Trong nhiều năm, họ tin rằng việc ký hiệu là sai, vì vậy rất khó để họ thay đổi quan điểm ngay lập tức. Chúng tôi đã có trải nghiệm tương tự trong DAGD. Những giáo viên gặp khó khăn nhất là những giáo viên đã từng dạy ở trường chuyên biệt. Ngay cả khi chúng tôi dạy họ ngữ pháp NNKH TP.HCM, họ vẫn ký hiệu và nói cùng một lúc. Tốt hơn là nên tìm những người quan tâm đến ngôn ngữ ký hiệu và để những người Điếc để dạy họ theo một cách đúng đắn|.
Trong khi hiệu trưởng của các trường chuyên biệt tin rằng các trường chuyên biệt sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ việc đào tạo NNKH TP.HCM và việc giảng dạy như vậy sẽ bắt đầu từ đó, thì bản thân những người giảng dạy NNKH TP.HCM này lại đặt hy vọng vào việc mở rộng kiến thức của mọi người và sử dụng NNKH TP.HCM bên ngoài phạm vi trường học. Hơn nữa, họ thấy khả năng đào tạo giáo viên của các trường chuyên biệt về NNKH TP.HCM và các phương pháp phiên dịch không phải là hai giai đoạn tách biệt mà là một điều gì đó có thể xảy ra đồng thời, có thể song song với việc đào tạo phiên dịch viên dựa vào cộng đồng.
Theo phỏng vấn của những người tham gia hội thảo khác (giáo viên, một phiên dịch viên đến từ Hà Nội), một mặt hội thảo này đã tạo ra “tác động lớn”; mặt khác, những người tham gia cho biết cần phải liên tục nghiên cứu về cấu trúc ngôn ngữ ký hiệu, cũng như các lý thuyết và kỹ thuật phiên dịch, để tạo ra những sự thay đổi sau khi đã có những hiểu biết nhất định. Ba trong số những người được phỏng vấn coi người điều hành DAGD là nguồn lực duy nhất tại Việt Nam để thực hiện việc đào tạo giáo viên, và hai người xem các giảng viên NNKH TP.HCM là nguồn lực cho việc giảng dạy ngôn ngữ cho giáo viên của trường chuyên biệt. Tuy nhiên, tại thời điểm phỏng vấn, những người được phỏng vấn đã nói về kế hoạch kêu gọi sự tham gia tự nguyện của những người điều hành DAGD và lứa học sinh đã tốt nghiệp từ DAGD để thực hiện các hoạt động đó thay vì thông qua các kênh chính thức, chẳng hạn như các chương trình đào tạo giáo dục đặc biệt tại Trường Đại học Sư phạm TP.HCM. Do đó, trong những bình luận này, bối cảnh tồn tại khoảng cách giữa nhiệm vụ giáo dục của nhà nước và các chương trình đào tạo do nhà nước hỗ trợ, phần lớn vẫn được gợi ý một cách gián tiếp (như cách vẫn làm tại thời điểm viết bài này). Xem thêm Cooper và Nguyễn (2015) để biết thêm phân tích vi mô thông qua một ví dụ về các cách thức mà các nhà lãnh đạo HDC phối hợp với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong việc thuyết trình các thông tin về ngôn ngữ, dẫn đến việc tạo điều kiện cho sự thay đổi trong tư tưởng về ngôn ngữ giữa những người tham gia hội thảo.
Giảng dạy NNKH TP.HCM và sự công nhận của Nhà nước
Khi các sáng lập viên người Điếc thành lập HDC vào tháng 12 năm 2008, họ cũng bắt đầu mở các lớp NNKH TP.HCM phục vụ cộng đồng. Các lớp này ban đầu hướng tới thành viên cộng đồng người |NGHE|, nhưng khi những người Điếc có ít hoặc không có cơ hội đến trường và/hoặc ít hoặc không có liên hệ với những người Điếc lới tuổi khác đã bắt đầu tham gia các buổi họp của câu lạc bộ, HDC quyết định mở các lớp NNKH TP.HCM cho các thành viên của cộng đồng người Điếc.
Trong thời gian nghiên cứu, các cuộc họp hàng tuần của Câu lạc bộ Người Điếc TP.HCM mà tôi tham dự bao gồm việc thường xuyên tham khảo ý kiến từ các lớp NNKH TP.HCM, cũng như vạch ra các chiến lược cụ thể để tăng số lượng người |NGHE | tham dự các lớp học này. Trong năm 2008 và 2009, một bảng câu hỏi được đưa ra cho 38 học viên NNKH TP.HCM không phải là người Điếc tham gia các lớp học từ các giảng viên do DAGD đào tạo đã làm sáng tỏ thêm những tình huống này16. Bảng câu hỏi dành cho người học Ngôn ngữ ký hiệu TP.HCM bao gồm chín câu hỏi như sau:
1. Bạn đã học NNKH được bao lâu rồi?
2. Có bao nhiêu giáo viên dạy NNKH mà bạn đã được học?
3. Điều gì đã làm bạn quyết định tham gia vảo lớp học NNKH?
4. Điều gì dễ học và dễ tiếp thu trong khi bạn học NNKH?
5. Điều gì khó học và khó tiếp thu trong khi bạn học NNKH?
6. Bạn có biết người Điếc nào không trước khi bạn học NNKH? Nếu có, bạn đã giao tiếp với người Điếc như thế nào?
7. Bạn không biết gì về người Điếc trước khi tham gia vào lớp học NNKH, và nay là một học sinh trong lớp học NNKH, những điều nào bạn đã học được khi tham gia vào lớp học này (những điều có liên quan đến người Điếc), điều trước đây bạn chưa được biết?
8. Khi tham gia vào lớp học NNKH, những người bạn của bạn hoặc gia đình của bạn đã có ý kiến gì về việc học NNKH của bạn?
9. Sau khi kết thúc khóa học NNKH này, bạn có quyết định tiếp tục tham gia vào khóa học kế tiếp không? Tại sao?
Câu trả lời của học viên cho Câu hỏi 3 (Điều gì khiến bạn quan tâm đến việc học NNKH TP.HCM?) đặc biệt thú vị đối với các giảng viên NNKH TP.HCM và đối với tôi. Có mười ba lý do khác nhau để lý giải cho sự quan tâm của sinh viên đối với NNKH TP.HCM. Hai trong số này phổ biến hơn những lý do còn lại. Mười bốn người được hỏi (36,8%) cho biết họ muốn giao tiếp với những người Điếc, và bảy người được hỏi (18,4%) nói rằng sau này, họ muốn dạy học sinh Điếc như là một công việc được trả lương. Trả lời cho Câu hỏi 9 (Bạn có tiếp tục học NNKH TP.HCM sau khi khóa học này kết thúc không?), Tất cả những người được hỏi đều trả lời đều rất quả quyết; trong đó có 9 người được hỏi (23,7%) cho biết họ không thể tiếp tục theo học NNKH TP.HCM nếu sau này không giúp họ kiếm được việc làm.
Những phát hiện này có ảnh hưởng đến hội thảo phiên dịch vì những người tham dự rất quan tâm đến việc hội thảo có thể giúp họ cải thiện chất lượng giảng dạy như thế nào trong các trường chuyên biệt giáo dục Điếc và kiến thức của họ về NNKH TP.HCM cũng như kỹ năng phiên dịch. Bởi vì các trường chuyên biệt thường là nơi đầu tiên mà cảnh sát hoặc tòa án tìm đến khi người Điếc bị buộc tội hoặc là nạn nhân của tội phạm, những lý do này là chính đáng17.
Sự công nhận của Nhà nước đối với Câu lạc bộ Người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh và các Câu lạc bộ và Hội người Điếc trên toàn quốc
Đầu năm 2008, lãnh đạo và các thành viên của HDC bắt đầu đề nghị để được công nhận tư cách pháp lý của HDC. Liên hệ với các đại diện của Bộ LĐTBXH, ban đầu họ được cho biết rằng trước tiên họ phải thành lập các chi hội ở mỗi 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam (Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh). Cuối năm đó, họ được một đại diện khác của Bộ LĐTBXH cho biết rằng họ phải thành lập các chi hội ở ít nhất 50% số tỉnh (khoảng 30 địa điểm). Một trong những người điều hành DAGD nói với tôi rằng đây là quy định của Ủy ban Điều phối Quốc gia về Người khuyết tật Việt Nam, được thành lập vào khoảng năm 1987–1988. Vào thời điểm đó, những người cùng điều hành DAGD phỏng đoán rằng, nếu thậm chí có thể thành lập 20 câu lạc bộ, thì con số đó cũng đủ thuyết phục để được công nhận chính thức.
Tại cuộc họp ngày 26 tháng 7 năm 2008 của Câu lạc bộ Người Điếc TP.HCM, việc công nhận chính thức đã được thảo luận trong khoảng thời gian dài. Các lãnh đạo của Câu lạc bộ Điếc đã mô tả về vị thế khác nhau của các tổ chức của người Điếc với các tổ chức của người mù. Lãnh đạo Câu lạc bộ người Điếc nói với các thành viên rằng họ hiểu được số người mù ít hơn nhiều so với người Điếc ở Việt Nam; tuy nhiên, Chính phủ đã chính thức công nhận các tổ chức của người mù vì họ có nhiều ưu thế hơn do có các thành viên đã từng phục vụ trong các cuộc chiến tranh khác nhau. Các tổ chức của người Điếc vì thế mà đã gặp bất lợi, các nhà lãnh đạo câu lạc bộ lập luận, do không được nhà nước công nhận đã từng đóng góp công lao trong chiến tranh hoặc không thể chứng minh sự tồn tại của việc đã từng phục vụ trong chiến tranh. Các thành viên Câu lạc bộ Điếc nói về cách họ có thể xác định vị thế của những người Điếc đã từng phục vụ trong chiến tranh và giúp họ để được công nhận. Họ cũng nói về những người đóng vai trò trung gian để hỗ trợ họ trong việc mang nguyện vọng được công nhận chính thức đến các cơ quan của Chính phủ, chẳng hạn như thẩm phán. Để thể hiện được vị thế của mình, họ cũng cần phải tăng cường đội ngũ phiên dịch viên mà họ có thể dựa vào. Chỉ với hai phiên dịch viên tình nguyện hiện có của HDC, tình hình như vậy đã hạn chế số lượng và tần suất của các cuộc họp vận động mà lãnh đạo và các thành viên của HDC có thể theo đuổi.
Các nhà lãnh đạo HDC hy vọng họ có thể tranh thủ cuộc họp vào tháng 1/2009 của Trung tâm Phát triển Châu Á – Thái Bình Dương về Người khuyết tật để đưa ra vấn đề về sự công nhận chính thức và các mối quan tâm liên quan. Tại cuộc họp đó của HDC, các chủ nhiệm của câu lạc bộ đã sử dụng phần đầu tiên của cuộc họp để tập luyện bài thuyết trình mà họ dự định sẽ trình bày tại Hội nghị APCD ở Hà Nội. Trong cuộc trò chuyện của mình, lãnh đạo câu lạc bộ đã giới thiệu 12 chương trình trọng điểm cho sự hợp tác quốc gia về người Điếc, trong đó họ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống câu lạc bộ người Điếc trên cả nước. Tại cuộc họp ngày 21 tháng 2 năm 2009 của câu lạc bộ, bốn đại diện đã tham dự cuộc họp APCD đã đề cập đến bài thuyết trình của họ. Các ý kiến của họ tập trung vào sáu chủ đề được đề cập trong các cuộc họp của APCD: thành lập các câu lạc bộ người Điếc; “| CƠ HỘI |” của học sinh Điếc bởi giáo viên trường chuyên biệt; tình trạng thất nghiệp; thành viên tiềm năng trong Liên đoàn Người Điếc Thế giới; nhà nước công nhận các ngôn ngữ ký hiệu của Việt Nam; và thiết lập các thủ tục bỏ phiếu dân chủ để lựa chọn ban lãnh đạo của câu lạc bộ. Các ý kiến của họ cũng bao gồm một chủ đề mà họ đã từng gặp tại cuộc họp APCD: Nhu cầu đào tạo và đãi ngộ của các phiên dịch viên NNKH TP.HCM-tiếng Việt.
Trong một cuộc phỏng vấn, bốn đại diện của câu lạc bộ Điếc tham gia cuộc họp APCD đã đề cập đến một số vấn đề phát sinh trước và trong cuộc họp đó liên quan đến phiên dịch viên. Mong đợi đầu tiên liên quan đến APCD rằng Câu lạc bộ Người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh và Câu lạc bộ Khiếm thính của Trung tâm Phát triển sẽ tham dự cuộc họp với tư cách là một câu lạc bộ đại diện chung cho toàn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trong Chương 3, tôi mô tả sự hình thành của HDC, được thúc đẩy bởi sự khước từ của các nhà lãnh đạo HIC về việc cho phép các thành viên câu lạc bộ bỏ phiếu và tham gia vào việc lựa chọn các nhà lãnh đạo HIC. Một tranh cãi liên quan là hình thức ngôn ngữ (ký hiệu hỗ trợ tiếng Việt, nói bằng tiếng Việt trong khi ký hiệu theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt) được các nhà lãnh đạo của HIC thúc đẩy. Vấn đề đối với các lãnh đạo HDC tại cuộc họp APCD không phải là HDC và HIC cùng tham dự cuộc họp; đúng hơn, APCD cho rằng tất cả những người Điếc đến từ TP.HCM đều dùng chung một ngôn ngữ và do đó họ sẽ giao tiếp bằng một phiên dịch viên duy nhất. Theo quyết định của APCD, đây sẽ là phiên dịch viên đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch Câu lạc bộ Khiếm thính và người ký hiệu theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt. Cả chủ tịch HDC và một trong những người điều hành DAGD đã cố gắng giải thích cho APCD về sự khác biệt giữa NNKH TP.HCM và Tiếng Việt có hỗ trợ ký hiệu, cũng như những khó khăn giữa ban lãnh đạo của hai câu lạc bộ. APCD chấp thuận và cho phép HDC đưa theo phiên dịch viên của riêng mình; tuy nhiên, APCD không trả thù lao cho phiên dịch viên cho các dịch vụ của cô ấy18
.Tuy nhiên, khi những người tham gia HDC đến cuộc họp, họ đã đối diện với các sáng lập viên của tổ chức APCD, những người muốn phiên dịch viên của HDC và HIC làm việc cùng nhau, thay phiên nhau phiên dịch cho toàn bộ khán giả. Đại diện của HDC đã phải giải thích một lần nữa rằng có hai hình thức phiên dịch khác nhau đang diễn ra trong hội trường (tức là NNKH TP.HCM và Tiếng Việt có hỗ trợ ký hiệu). Sau cuộc thảo luận này, người điều hành CD đã đồng ý cho phép cả hai nhóm phiên dịch viên làm việc đồng thời và chỉ cho phiên dịch cho các nhóm do chỉ định của họ.
Yêu cầu của APCD đối với các nhà tổ chức xã hội của người Điếc hầu như không phải là duy nhất. Các thành viên và lãnh đạo câu lạc bộ người điếc liên tục bị đặt vào tình thế phải giải trình về tính hợp pháp của NNKH TP.HCM. Hơn nữa, những yêu cầu của họ về phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt là tiền đề cho việc vận động thay đổi thể chế và chính sách trong giáo dục, việc làm và công nhận của chính phủ đối với các tổ chức thành viên xã hội dân sự. Tình huống này là biểu tượng cho những phản ứng chính thức đối với nỗ lực của lãnh đạo HDC nhằm đạt được sự công nhận cho NNKH TP.HCM như một ngôn ngữ và sự công nhận cho các câu lạc bộ và hiệp hội địa phương và quốc gia do người Điếc lãnh đạo. Tính đến mùa xuân năm 2016, hơn 24 câu lạc bộ Điếc đã hoạt động trên khắp cả nước. Chủ tịch Liên đoàn Người Điếc Thế giới cũng đã hai lần đến thăm Việt Nam, đào tạo về lãnh đạo các câu lạc bộ Người Điếc quốc gia và gặp gỡ cán bộ của các Bộ và các tổ chức phi Chính phủ quốc tế. Hội Người Khuyết Tật thành phố Hà Nội [DP Hà Nội, hay DP Hà Nội] chính thức được thành lập vào ngày 15 tháng 5 năm 2009 theo Quyết định số 2270/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội. Kể từ thời điểm đó, DP Hà Nội đã triệu tập các cuộc họp để thảo luận về việc đào tạo ngôn ngữ ký hiệu và sự công nhận chính thức cho các câu lạc bộ người Điếc của quốc gia (xem phần giới thiệu ở Chương 2). Tuy nhiên, không phải lúc nào người Điếc cũng có mặt trong các cuộc họp này. Một yếu tố làm hạn chế tiềm năng lãnh đạo của người Điếc Việt Nam là sự kiểm soát của người |NGHE| (không Điếc, không ký hiệu) và người tự nhận mình là người khuyết tật hướng tới mục tiêu lãnh đạo người khuyết tật.
Sự tham gia của Nhà nước Việt Nam thông qua Quyền Công dân Điếc Tích cực
Từ cuối tháng 1 đến tháng 3 năm 2009, những người đứng đầu câu lạc bộ Điếc đã đề cập đến chủ đề trở thành thành viên chính thức trong hầu hết các cuộc họp. Các lãnh đạo câu lạc bộ từ Hà Nội đã được mời tham dự một trong những cuộc họp này và tham gia thảo luận về việc tạo ra một chương trình nghị sự chung cho việc xây dựng các câu lạc bộ quốc gia. Tại một cuộc họp khác, lãnh đạo HDC đã mời các thành viên câu lạc bộ từ các thành phố khác tới TP.HCM để trao đổi về việc tổ chức Điếc tại thành phố của họ. Trong cuộc họp sau đó, hai phụ nữ đã lên sân khấu và nói về câu lạc bộ Điếc của họ ở Đà Nẵng, nơi mà họ mô tả là nhỏ và nghèo. Sau khi phát biểu, chủ nhiệm câu lạc bộ (gọi anh ấy là Su) đã cảm ơn hai cô gái và chào mừng sự xuất hiện của câu lạc bộ Điếc Đà Nẵng. Sau đó anh Su chuyển sang làm thành viên và khuyến khích mọi người giữ liên lạc với những người Điếc ở quê nhà và giúp họ tổ chức:
Bổ sung thêm vào nhận xét của Su, một chủ nhiệm câu lạc bộ khác, Trang20, người cũng đã tham dự cuộc họp APCD, nói rằng, ngay cả ở các thành phố lớn hơn như Hải Phòng, các câu lạc bộ Điếc có khá ít thành viên và ít hoặc không có phiên dịch viên ngôn ngữ ký hiệu. Sau đó, cô nhấn mạnh rằng sự liên kết trong một quốc gia sẽ cho phép tất cả các câu lạc bộ người Điếc có thể chia sẻ quỹ và các nguồn lực khác khi cần thiết.
Các vấn đề mà bốn đại diện HDC nêu ra tại cuộc họp APCD phản ánh các cuộc thảo luận được tổ chức với các thành viên của câu lạc bộ trong những tháng trước đó. Ví dụ, tại cuộc họp ngày 19 tháng 7 năm 2008 của HDC, câu hỏi của một thành viên về việc tham dự hàng tuần đôi khi đã đưa cuộc thảo luận về mục đích chung của câu lạc bộ. Lãnh đạo HDC giải thích cho sự quan tâm của họ trong việc tổ chức câu lạc bộ như một trong những hoạt động hòa nhập xã hội, trong đó người Điếc trước tiên phải: (1) giúp đỡ các thành viên Điếc cần học ngôn ngữ ký hiệu; (2) thúc đẩy sự bình đẳng đối với người Điếc trên toàn quốc; (3) tổ chức một khóa học công khai đối với người nghe Các vấn đề mà bốn đại diện HDC nêu ra tại cuộc họp APCD phản ánh các cuộc thảo luận được tổ chức với các thành viên của câu lạc bộ trong những tháng trước đó. Ví dụ, tại cuộc họp ngày 19 tháng 7 năm 2008 của HDC, câu hỏi của một thành viên về việc tham dự hàng tuần đôi khi đã đưa cuộc thảo luận về mục đích chung của câu lạc bộ. Lãnh đạo HDC giải thích cho sự quan tâm của họ trong việc tổ chức câu lạc bộ như một trong những hoạt động hòa nhập xã hội, trong đó người Điếc trước tiên phải: (1) giúp đỡ các thành viên Điếc cần học ngôn ngữ ký hiệu; (2) thúc đẩy sự bình đẳng đối với người Điếc trên toàn quốc; (3) tổ chức một khóa học công khai đối với người nghe21 và (4) phản ứng lại đối với những người buông lời gièm pha về người Điếc.
Chẳng hạn, trong một cuộc thảo luận về sự bình đẳng của người Điếc, một lãnh đạo HDC đã khẩn thiết rằng, “|Nếu bạn gặp một người Điếc không biết ngôn ngữ ký hiệu, bạn có bỏ đi không? Không! Nói với họ về câu lạc bộ!|” Trong một cuộc thảo luận về những người không ủng hộ người Điếc, các nhà lãnh đạo HDC đã đề cập đến sự chia rẽ giữa HIC của Trung tâm Phát triển và HDC, và một nhà lãnh đạo đã đưa ra lời khuyên: “|Nếu bạn gặp những người Điếc chưa từng tham dự HDC nhưng nói rằng nó không tốt, bạn sẽ là người quyết định xem liệu nó có thật sự đúng hay không. Nếu họ không cung cấp cho bạn lý do rõ ràng tại sao HDC không tốt, đừng vội làm theo họ. Ngoài ra, hãy mời họ đến HDC để họ có thể tự quyết định|.” Cuộc thảo luận kéo dài khoảng 20 phút này được tiếp nối bằng một cuộc thảo luận về những điều xã hội cần thay đổi để cho phép người Điếc sống ở TP.HCM và trên khắp cả nước đóng góp cho xã hội Việt Nam một cách toàn diện hơn: (1) phụ đề của chương trình truyền hình; (2) đào tạo và cung cấp phiên dịch viên NNKH/tiếng Việt trong trường học, bệnh viện và nơi làm việc; (3) Giáo viên Điếc và giáo viên làn người nghe thông thạo ngôn ngữ ký hiệu trong các trường học chuyên biệt, và (4) Người khiếm thính học và sử dụng chính ngôn ngữ của họ trong trường học.
Trong các hoạt động do HDC tổ chức được mô tả trước đó, có thể thấy rõ mối liên hệ giữa những thay đổi cấu trúc nhất định (ví dụ, việc sử dụng và học ngôn ngữ ký hiệu trong trường học, giáo viên Điếc, truy cập viễn thông, việc làm) và việc quảng bá rộng rãi các NNKH Việt Nam với mục đích khuyến khích việc sử dụng NNKH ở cả người |HEARING| và người Điếc. Liên quan đến việc thúc đẩy NNKH trong cộng đồng người Điếc, các cuộc thảo luận của HDC tập trung vào việc tiếp cận giáo dục và thành lập các câu lạc bộ người Điếc sử dụng các ngôn ngữ ký hiệu NNKH Việt Nam địa phương. Thảo luận về việc thúc đẩy NNKH trong cộng đồng người nghe tập trung vào việc hướng dẫn ngôn ngữ ký hiệu cho gia đình và giáo viên giảng dạy học sinh Điếc, tăng thời lượng nghiên cứu, đào tạo phiên dịch viên NNKH-tiếng Việt. Tiếp theo, tôi mô tả điểm nhấn của mỗi cuộc thảo luận này.
Để khuyến khích người Điếc sử dụng NNKH, sau khi đối mặt với lãnh đạo HIC của Trung tâm Phát triển về việc cấm Người Điếc khỏi các vị trí lãnh đạo và từ chối sử dụng NNKH TP.HCM, các nhà tổ chức HDC đã tìm cách thành lập một tổ chức do Người Điếc điều hành và những người khiếm thính đã đồng ý để sử dụng NNKH TP.HCM, cũng như các NNKH khác (ví dụ, khi mọi người đến thăm câu lạc bộ từ các tỉnh và thành phố khác). Không giống như ở Nhật Bản, nơi các nhà lãnh đạo D-Pro tách ra khỏi Liên đoàn Người Điếc Nhật Bản để thiết lập “bản sắc riêng biệt của Người Điếc” dựa trên “Mô hình văn hóa của người Điếc tại Mỹ” và quảng bá ngôn ngữ ký hiệu “thuần túy” (Nakamura, 2006, trang 1–2), các nhà lãnh đạo HDC đã nhắm đến việc bao gồm tối đa những người đã sử dụng hoặc muốn học cách sử dụng NNKH. Do đó, việc sử dụng văn hóa với tên gọi HDC (thực tế) tuân theo một thông lệ bắt đầu dưới thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội. Thông lệ này đánh dấu các cuộc họp nhóm liên kết theo tư cách của họ là các nhánh của văn hóa Việt Nam và truyền thống chung; do đó, văn hóa thay đổi “Tiếng Việt” nhiều như cách nó thay đổi từ “Điếc”.
Bằng cách khởi tạo mô tả văn hóa, các nhà lãnh đạo câu lạc bộ Người Điếc đã kết nối các hoạt động của những người Điếc bị gạt sang lề với cả diễn thuyết xã hội chủ nghĩa và diễn thuyết về di sản hoặc truyền thống. Điều này xác định HDC là người Việt Nam rõ ràng và là một thực thể riêng biệt của một quốc gia xã hội chủ nghĩa. Do đó, mô hình tổ chức xã hội chủ nghĩa và bản sắc được minh chứng rõ ràng trong suốt nghiên cứu này không mang tính chất tách biệt mà hướng tới quyền công dân trong một cộng đồng quốc gia và theo các nhà lãnh đạo HDC là một ngôn ngữ tiếng Việt 22
Một dấu hiệu cho thấy lợi ích quốc gia của HDC là ưu tiên các hoạt động của câu lạc bộ. Ví dụ, sự công nhận chính thức của HDC được ưu tiên vì nếu không có sự chấp thuận đó, nhóm có thể bị giải thể. Hơn nữa, về cơ bản, nếu không có sự chấp thuận như vậy, HDC sẽ không phải là “|TÍNH CHÍNH|” đối với nhà nước Việt Nam. Các nhà lãnh đạo HDC ưu tiên sự công nhận của nhà nước đối với NNKH Việt Nam và NNKH TP.HCM, bởi vì NNKH Việt Nam là thứ mà người Điếc Việt Nam thực sự sử dụng để giao tiếp với nhau và cũng là phương tiện mà thông qua đó họ đã cải thiện cuộc sống của mình. Họ cũng muốn những lợi ích tương tự cho những người Điếc khác, bắt đầu từ những trẻ Điếc, phần lớn các em được biết là không đi học. Ngược lại, mặc dù các nhà lãnh đạo HDC và các thành viên tham gia vào các hoạt động tự nhận diện bản thân – đưa ra sự nhận diện khác nhau như |ĐIẾC| và |nửa nghe/nửa điếc|) –những gì mà người khác gán cho họ không phải là ưu tiên đối với họ.
Do đó, mặc dù các cuộc phỏng vấn cá nhân và nhóm với các học viên của DAGD và lãnh đạo HDC đã tiết lộ việc thích sử dụng thuật ngữ người Điếc và từ chối thuật ngữ bị khiếm thính – ví dụ, bằng cách hướng dẫn sinh viên NNKH TP.HCM gọi họ là Điếc – Tôi không thấy họ sửa việc sử dụng từ ngữ của bất kỳ ai về từ khiếm thính hoặc các từ ngữ mang tính phân biệt khác. Thay vào đó, trong các cuộc phỏng vấn, những người tham gia nghiên cứu sau này đã nhấn mạnh việc sử dụng khiếm thính cho họ thấy hiểu biết của các giáo viên trường chuyên biệt và các nhà hoạch định chính sách về ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam. Đối với họ, việc sử dụng từ người Điếc và khiếm thính của người |NGHE| được coi là thước đo hiệu quả cho các hoạt động của họ nhằm hòa nhập xã hội (ví dụ: dạy các lớp NNKH TP.HCM, trả lời phỏng vấn trên báo), cụ thể là quyền công dân được sử dụng ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam. Đối với những người tham gia nghiên cứu này, điều kiện sống là vấn đề chứ không phải các hình thức phân biệt. Để giải quyết các vấn đề về điều kiện sống, lãnh đạo HDC đã hướng tới việc tăng cường sự tham gia của người Điếc trong câu lạc bộ và trong các hoạt động vận động liên quan đến các NNKH Việt Nam khác như một biểu hiện ngôn ngữ và văn hóa hợp pháp của Việt Nam.
Một trong những cách mà các nhà lãnh đạo HDC khuyến khích sự tham gia vào các hoạt động của câu lạc bộ là tham gia vào các vấn đề về sự biến đổi ngôn ngữ. Ở miền Nam Việt Nam, nhiều loại ngôn ngữ ký hiệu khác nhau tương ứng với các trường chuyên biệt khác nhau – như các bài học kinh nghiệm trong lớp học, không nhất thiết là các phương thức giảng dạy (xem thêm LeMaster, 2003; Nakamura, 2006; và Reilly & Reilly, 2005)23. Điều này đã đặt ra cho các nhà lãnh đạo HDC thách thức trong việc tạo ra một bối cảnh hòa nhập trong đó có thể thương lượng sự đa dạng ngôn ngữ. Nhận thức được rằng người Điếc tiếp tục bị cô lập về mặt ngôn ngữ, từ năm 2008 đến 2010, lãnh đạo HDC hiếm khi gọi hình thức ngôn ngữ ký hiệu được sử dụng trong câu lạc bộ là “|NNKH TP.HCM|.” Thay vào đó, để ghi nhận các ngôn ngữ ký hiệu địa phương thực tế hoặc đang được lưu hành, họ thường sử dụng thuật ngữ được quy ước rộng rãi |ký hiệu [trôi chảy]| (xem thảo luận trong Chương 3 và hình 3.5). Hơn nữa, nếu cá nhân thành viên câu lạc bộ sử dụng ký hiệu hỗ trợ tiếng Việt hoặc ký theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt, lãnh đạo HDC không phê bình cách làm đó; thay vào đó, họ duy trì việc sử dụng NNKH TP.HCM trong các hoạt động của mình và thường xuyên kiểm tra với người xem về mức độ hiểu họ ký hiệu. Cơ sở lý luận của các nhà lãnh đạo HDC khi sử dụng thuật ngữ chung |[KÝ HIỆU THÔNG THẠO]| chứ không phải là |NNKH TP.HCM| được phản ánh trong nhận xét của chủ tịch câu lạc bộ, Su, trong một cuộc phỏng vấn cá nhân:
Chúng tôi là người Việt Nam. Và chúng tôi là người Điếc. Bây giờ những người Điếc có cơ hội gặp nhau, chúng tôi nói chuyện với nhau dễ dàng. Nhưng chúng tôi muốn đóng góp cho xã hội Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần tìm cách phá bỏ những rào cản để người Điếc có thể tham gia vào xã hội. Cách để làm điều đó là thông qua việc thành lập nhiều câu lạc bộ hơn để Chính phủ công nhận chúng tôi và thông qua việc giảng dạy cho người nghe cách ký hiệu.|
Phát biểu của vị chủ tọa kết nối bản sắc ngôn ngữ của người Điếc với sự phát triển quốc gia đang diễn ra, đặc biệt là sự phát triển của “|XÃ HỘI|” Việt Nam. Tuy nhiên, họ không viện dẫn một chương trình nghị sự quốc gia được theo đuổi bởi một cộng đồng Điếc có khuynh hướng riêng biệt, và họ cũng không nhấn mạnh đến bệnh điếc. Thay vào đó, họ phản ánh nhận xét của các giảng viên NNKH TP.HCM được DAGD đào tạo, bốn người trong số họ cũng là lãnh đạo HDC (từ năm 2008 đến 2010) và một trong số họ là chủ tịch HDC vào năm 2016. Những người này cũng là những người chủ chốt trong nghiên cứu và tôi đã nói chuyện với họ trong khoảng 20 giờ của các phiên làm việc để chuẩn bị cho hội thảo phiên dịch. Thông qua Công, những người tham gia nghiên cứu này đã nói với tôi như sau:
Trong các hoạt động hội thảo, chúng tôi không muốn tập trung vào sự khác biệt giữa người Điếc và người khiếm thính. Chúng tôi muốn tập trung vào những gì người Điếc và người nghe chia sẻ. Tất cả chúng ta đều là người Việt Nam. Và tất cả chúng ta đều có thể đóng góp cho xã hội Việt Nam. Nếu chúng tôi chỉ cho họ [những người tham gia hội thảo] cách chúng tôi kết nối, họ có thể hiểu cảm giác của chúng tôi và tại sao việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu là quan trọng|.
Cách đầu tiên mà các nhà lãnh đạo HDC tìm cách giúp kết nối người nghe và người Điếc là tổ chức các lớp học NNKH TP.HCM. Khoảng 5-6 giáo viên hướng dẫn NNKH TP.HCM đã dạy các lớp NNKH TP.HCM vào các ngày thứ Bảy sau cuộc họp câu lạc bộ và vào Chủ nhật, cả sáng và chiều. Trong các cuộc họp câu lạc bộ hàng tuần, các nhà lãnh đạo khuyến khích hội viên mời bạn bè là người nghe, thành viên gia đình và những người cộng sự khác đến lớp học để họ có thể phát triển kỹ năng ký hiệu của mình. Mặc dù các lớp này duy trì số lượng người tham gia tương đối ổn định, tuy nhiên các giáo viên dạy NNKH TP.HCM phàn nàn rằng, trong các cuộc phỏng vấn cá nhân và nhóm, rằng không có học sinh nào hoàn thành khóa học NNKH TP.HCM Cấp 1 lên Cấp 2. Vì vậy, mặc dù các lớp học vẫn đầy đủ, nhưng chúng luôn có những học viên mới. Điều này đặt các giảng viên vào vị trí luôn luôn giảng dạy Cấp độ 1, không thể giúp họ có kinh nghiệm giảng dạy các môn học nâng cao hoặc chuẩn bị cho sinh viên nâng cao để nghiên cứu phiên dịch. Như cuộc thảo luận trước đây của tôi về cuộc khảo sát của tôi đối với sinh viên NNKH TP.HCM, các câu trả lời khảo sát chỉ ra rằng thực tế kiếm sống trái ngược với thực tế mà việc học và sử dụng NNKH có, khi mà vào thời điểm đó (2008) ngành ngề này chưa phổ biến và thu nhập không ổn định tại Việt Nam. Trong năm 2016, tình hình này đã được cải thiện phần nào và phiên dịch viên có thể tìm được việc làm theo hợp đồng và thậm chí toàn thời gian cho các dự án của các tổ chức phi Chính phủ quốc tế. Tuy nhiên, do không có chương trình đào tạo NNKH-Việt Nam nào được công bố rộng rãi và không có cơ chế đánh giá chất lượng phiên dịch viên, phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu/ngôn ngữ nói là một lĩnh vực cần được chú ý và tài trợ rất nhiều. Điều này giúp cho việc phát triển nghề nghiệp, đánh giá và cấp chứng chỉ chuyên môn, các quy trình xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp và nghiên cứu liên quan.
Tất cả những mô tả này về các hoạt động và mục tiêu của Câu lạc bộ Điếc TP.HCM, bao gồm dạy NNKH TP.HCM, đào tạo thông dịch viên, theo đuổi sự công nhận chính thức và sử dụng đào tạo đồng đẳng để dạy kỹ năng thuyết trình cho các thành viên câu lạc bộ (xem thêm Chương 5), liên kết với nhau xung quanh việc mở rộng sự quan tâm của xã hội đối với người Điếc Việt Nam vượt ra ngoài phạm vi của hoạt động cộng đồng người Điếc. Thật vậy, để thực hiện các mục tiêu của câu lạc bộ Người Điếc, các nhà lãnh đạo câu lạc bộ tạo ra “ngôn ngữ của trạng thái” để vận động người Điếc tham gia các hoạt động công (ví dụ: sự công nhận chính thức) và phê phán việc thiếu cơ hội của họ (ví dụ, tiếp cận giáo dục trong NNKH) (Hansen & Stepputat, 2001, trang 8; xem thêm Chương 2).
Trong thời gian nghiên cứu, các sáng kiến của HDC cũng ngày càng hướng tới việc thu hút nhiều người Điếc và người khiếm thính tại TP.HCM và gắn kết với các nhóm Điếc từ các thành phố và làng quê trong cả nước để hướng tới một dự án được quốc gia công nhận. Việc tìm kiếm sự công nhận đó theo một ngôn ngữ Việt Nam (tức là NNKH TP.HCM) đòi hỏi phải thương lượng thông qua một hệ thống phân cấp bằng các hình thức mà nhà nước đã công nhận. Nó là để khẳng định một vị trí trong hệ thống đó, mặc nhiên, củng cố tính hợp pháp của những thứ bậc đó. Đồng thời, việc khẳng định NNKH TP.HCM là ngôn ngữ Việt Nam nền tảng ngôn ngữ và hình thức thể hiện của các hệ thống thứ bậc đó và dự án xã hội chủ nghĩa hiện đại.
Năm 2003, nghiên cứu của Woodward về bản sắc ngôn ngữ ký hiệu và xã hội Việt Nam phát hiện ra rằng người dùng NNKH TP.HCM có một bản sắc riêng biệt của người Điếc nhưng không phải là một bản sắc mang tính đại diện cho người Điếc trên cả nước (2003, trang 295). Dữ liệu được thảo luận ở đây cho thấy rằng các điều kiện như vậy hiện đang được chuyển đổi. Hiện tại, các sáng kiến của HDC nhằm mục đích tăng cường mối quan hệ tổ chức với các câu lạc bộ người Điếc trên cả nước, thúc đẩy việc thành lập Hội Người Điếc Việt Nam và kêu gọi người Điếc trở thành một nhóm văn hóa của Việt Nam. Những hành động này tạo ra làn sóng mạnh mẽ đối với các chính sách và thực tiễn thực hiện của Chính phủ hiện đang làm suy yếu việc sử dụng NNKH Việt Nam và sự tham gia xã hội của người Điếc.
Trái ngược với hình thức ký hiệu mà học sinh Điếc thường gặp ở các trường chuyên biệt (ví dụ, nói tiếng Việt có hoặc không ký hiệu theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt), HDC cũng nhằm mục đích thúc đẩy sự hiểu biết của xã hội về NNKH như một dạng ngôn ngữ tự nhiên. Nếu đó là quyền công dân “gọi tình trạng mới của cuộc sống là nguồn gốc và nền tảng của chủ quyền,” thì đó là quan niệm về quyền công dân được cấu hình khác nhau đến mức nhà nước có thể coi là mối đe dọa đối với chủ quyền (Agamben, 1998, trang 129). Quy định và kỷ luật việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu và quyền tự quyết của người Điếc trong và ngoài hệ thống trường đặc biệt ngăn chặn người Điếc đòi quyền công dân, khiến cho người Điếc là công dân Việt Nam sử dụng các ngôn ngữ Việt Nam khác nhau thành người khiếm thính bị suy giảm năng lực công dân. Hoạt động của Câu lạc bộ Người Điếc TP.HCM nhằm mục đích củng cố quyền công dân của người Điếc Việt Nam và NNKH trở thành ngôn ngữ của Việt Nam, giúp cho việc ký hiệu trở thành một nét lịch sử sâu sắc của Việt Nam.
Kết luận
Tương lai về thị trường-xã hội chủ nghĩa được xem xét trong Chương này là rõ ràng đã và đang được thực hiện. Các khung pháp lý mới đã tạo cơ hội đáng kể cho Người Điếc tham gia vào các hoạt động tổ chức xã hội và việc làm. Đồng thời, các khuôn khổ pháp lý này đã tạo điều kiện cho các hình thức kiểm soát mới đối với các đóng góp về lao động, ngôn ngữ và quyền công dân của Người Điếc. Trong số các hình thức kiểm soát của nhà nước-xã hội đối với người Điếc Việt Nam và người ký tên được xem xét trong chương này là vai trò của cơ quan kiểm duyệt theo ủy quyền, trong đó các nhân tố thuộc về nhà nước (chẳng hạn như nhóm sản xuất chương trình phát sóng) hạn chế việc sử dụng và lưu hành NNKH TP.HCM. Việc tìm kiếm của tôi trên Bộ Thông tin và Truyền thông và các trang web có liên quan khác không tìm thấy các chỉ thị hoặc quyết định liên quan đến các hình thức tham chiếu được ủy quyền chính thức đối với người Điếc ở Việt Nam (tức là việc sử dụng thuật ngữ khiếm thính, phóng viên tại Café Lặng đề cập); tuy nhiên, thực tế là các nhân viên truyền thông đang đưa ra quyết định về việc sử dụng NNKH TP.HCM cho thấy rằng họ và các cơ sở tương tự giữ những vị trí quan trọng như là một bộ máy giúp việc của nhà nước Việt Nam.
Các sự kiện được truyền hình trực tiếp dường như sẽ cung cấp cho công dân Điếc một nền tảng gián tiếp thông qua các tạp chí tin tức. Trong phạm vi mà các phiên dịch viên NNKH TP.HCM-Việt Nam truyền đạt chính xác ý kiến của người ký hiệu, các bình luận của họ sẽ đến được khán giả. Mô tả của tôi về sự xuất hiện của Trang trong tác phẩm “310 năm Đồng Nai” trong phần giới thiệu cuốn sách này là một ví dụ điển hình cho một cơ hội như vậy. Cũng được sản xuất trong một chương trình công ích trên truyền hình (trên VTV2 năm 2010) là một bản tường thuật NNKH TP.HCM và bản tường thuật của nó sang ngôn ngữ nói tiếng Việt. Là chủ đề của phép phân tích vi mô so sánh, tính chính xác về mặt ngôn ngữ của người phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt với các giá trị và quan điểm xã hội học của người ký đã góp phần vào việc giải thích đúng với văn bản gốc. Do đó, nó không can thiệp vào các khẳng định của người ký hiệu và các mục tiêu liên quan đến thay đổi xã hội (Cooper & Nguyễn, 2015).
Trong các trường hợp khác, sự can thiệp của các nhân viên truyền thông với tư cách là đại diện của nhà nước đặt ra giới hạn đối với những khoảnh khắc thể hiện quyền tự quyết định. Trong Chương này, tôi mô tả hoàn cảnh của câu chuyện được công chúng quan tâm được quay video tại Café Lặng, sau đó đã thúc đẩy một cuộc thảo luận về các thuật ngữ |ĐIẾC| và | K-H-I-Ế-M T-H-Í-N-H]| trong một cuộc họp của HDC. Cuộc hội thoại này sau đó tiếp tục trở thành chủ đề để tìm hiểu về mức độ nhận thức của các thành viên HDC về các thuật này. Tổng hợp lại, những ví dụ này chứng minh rằng: (1) các khái niệm liên quan đến chủ thể là công dân Điếc và NNKH TP.HCM có ý nghĩa quan trọng trong và ngoài các phạm vi trung tâm giáo dục người Điếc và tổ chức xã hội, và (2) chủ thể là công dân Điếc có thể bị áp dụng các hình thức kỷ luật vì sử dụng NNKH trong các địa điểm tương tác hàng ngày bên ngoài phạm vi các tổ chức của nhà nước. Trên thực tế, những sự mâu thuẫn như vậy không chỉ xảy ra đối với người |NGHE| ở Việt Nam, đã được chứng minh tại Chương 4, mà còn ở các tương tác xuyên quốc gia đối với những người Điếc không phải là người Việt Nam.
1. Xem Breuggemann (2009), Emery (2006, 2009) và Ladd (2003) để đưa ra giả thuyết về đối tượng Điếc trong bối cảnh Bắc Đại Tây Dương. Xem Okombo (2008) để thảo luận về tình trạng thiểu số ngôn ngữ bị gạt ra ngoài lề (tức là tình trạng chủ thể), được viết từ quan điểm của các quốc gia dân chủ và dân chủ châu Phi.
2.Có thể tham khảo Mbewe’s (2015) Deaf Women in Africa for a description of Deaf women’s economic and sociopolitical mobilizations, and Lord and Stein (2015) cho một cuộc khảo sát tại Châu Phi về bản sắc và quyền của người điếc: Thúc đẩy bình đẳng thông qua Công ước LHQ về quyền của NKT.
3. Các bài báo viết về Smile Tours, trong số đó có bài Hướng dẫn du lịch cho người khiếm thính (báo Tuổi Trẻ, ngày 20 tháng 9 năm 2008), và “Khi bàn tay nói to hơn cả lời nói” (báo Thanh niên , Ngày 19 tháng 11 năm 2008).
4. NNKH Hoa Kỳ (ASL) và Ngôn ngữ Ký hiệu Úc, hoặc Auslan, là hai ngôn ngữ riêng biệt.
5. ASL: NNKH Hoa Kỳ.
6. Năm 2008 và 2009, tấm biển phía trước lối vào Café Lặng sử dụng chữ viết tay |L| là chữ cái đầu tiên trong “Lặng”, đánh dấu ngôn ngữ ký hiệu là một tính năng độc đáo của doanh nghiệp. Vào năm 2010, những người chủ mới đã mua lại Café Lang và sau đó đã thay đổi biển hiệu trước cửa và không cho nhân viên Điếc sử dụng nữa.
7. HTV9 đã quay câu chuyện quan tâm đến con người này tại Café Lặng vào thứ 4 ngày 11 tháng 2 năm 2009 và phát sóng vào cuối tuần.
8.Tôi lưu ý rằng bản chất “được báo cáo” của các tuyên bố siêu thuyết ở đây để chỉ ra rằng đây là một cuộc trao đổi sôi nổi giữa người |NGHE| (những người không ký hiệu và không quen thuộc với các dân tộc và nền văn hóa Điếc) và những người không Điếc sử dụng ký hiệu có quan hệ chặt chẽ với các cá nhân và nhóm Điếc.
9. Dấu gạch ngang giữa mỗi chữ cái biểu thị các thuật ngữ viết đúng chính tả.
10. Một số thành viên Câu lạc bộ Điếc TP.HCM đi từ bên ngoài vào TP.HCM để tham dự các cuộc họp. Một số thành viên cũng đến từ các tỉnh khác thuộc khu vực nam trung bộ, phía bắc TP.HCM, miền đông nam bộ (ví dụ: Cần Thơ), hoặc xa hơn về phía nam (ví dụ: Vũng Tàu).
11. Không ai trong số những người tham gia nghiên cứu lớn lên ở miền Nam nhớ đã nhìn thấy người Điếc hoặc thông dịch viên NNKH TP HCM -tiếng Việt trên truyền hình trước năm 2008. Ngược lại, những người Điếc sống ở Hà Nôi chứng thực việc thỉnh thoảng có thông dịch viên NNKH Hà Nội-tiếng Việt trên truyền hình từ đầu những năm 2000 và cũng như bản tin truyền hình đơn lẻ về các hoạt động do Hội người điếc Hà Nôi (Chi Hôi Người Điếc Hà Nôi) chủ trì/tổ chức.
12. Trang và Tân không được yêu cầu tham gia cuộc thi mà biểu diễn như một phần của chương trình giải trí buổi tối. Một số nhóm biểu diễn đã được giới thiệu: những nam giới mặc quân phục hát những bài hát yêu nước và những người phụ nữ nhảy múa trong áo dài [áo chẽn và quần dài, được coi là kiểu risqué trong thời kỳ cách mạng những năm 1920 và 1930 nhưng hiện nay được coi là trang phục nữ truyền thống].
13. Vào tháng 9 năm 2015, Phiên dịch viên ngôn ngữ ký hiệu - Việt ngữ Hà Nội đã hợp tác với các thành viên của Hội Người Điếc Hà Nội để thành lập Đội Phiên dịch Ngôn ngữ Ký hiệu Hà Nội (HTSLI). Ngoài việc giáo dục cộng đồng về ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam - phiên dịch tiếng Việt, nhóm cũng cung cấp một loạt các dịch vụ, bao gồm phiên dịch HNSL-tiếng Việt và phiên dịch viên Điếc và không Điếc làm việc theo nhóm để vận động và cung cấp các dịch vụ giao tiếp trong gia đình, y tế, pháp lý và các tình huống xét xử (xem https://www.youtube.com/watch?v=4ksIDTZ0LPw). Không giống như HTSLI, NNKH TP HCM-Phiên dịch viên tiếng Việt ở miền Nam Việt Nam chưa thành lập các dịch vụ công hoặc bắt đầu chuyên nghiệp hóa.
14. Trong luận văn của tôi (2011), tôi báo cáo rằng hội thảo có 23 người tham dự. Con số này không bao gồm học viên tốt nghiệp DAGD, những người đóng nhiều vai trò khác nhau trong hội thảo (ví dụ: trình bày, hỗ trợ các hoạt động xây dựng mối quan hệ, ghi lại sự kiện trên phim và ảnh, và sắp xếp hậu cần), phiên dịch viên hoặc giám đốc của trung tâm tổ chức hội thảo.
15. Vài tháng sau hội thảo phiên dịch, người điều hành DAGD và người dựng chương trình đã tổ chức hội thảo một ngày chỉ dành cho giáo viên.
16.Các giảng viên NNKH TP HCM được DAGD đào tạo và tôi đã phát triển bảng câu hỏi để gợi ý phản hồi về các câu hỏi áp dụng trực tiếp cho việc giảng dạy của họ và để tôi có thể tìm hiểu thêm về mục đích học NNKH TP HCM của những người không Điếc. Về việc quản lý bảng câu hỏi, khi tôi tìm đến Mỹ Uyên về bảng câu hỏi, cô ấy đã yêu cầu Mĩ (nhân viên của DAGD/phiên dịch viên) và tôi đến lớp của cô ấy để học sinh có cơ hội hỏi cô ấy (bằng tiếng Việt) về NNKH TP HCM và kinh nghiệm của cô ấy với tư cách là một người Điếc và một giáo viên. Cuộc khảo sát đầu tiên này và thời gian hỏi và trả lời của Mỹ Uyên đã kết thúc. Sau đó Minh Hải phát phiếu điều tra cho lớp bốn học sinh của mình vào tháng 7 năm 2008. Vào tháng 2 năm 2009, Minh Hải và ba giáo viên khác đã thu thập thêm 28 phiếu khảo sát. Lớp Mỹ Uyên là lớp duy nhất mà tôi có mặt trong buổi khảo sát.
17. Tại tất cả các trường học chuyên biệt dành cho người Điếc và DAGD, những người tham gia nghiên cứu báo cáo rằng cảnh sát thường xuyên liên lạc với họ khi họ bắt giữ những người Điếc. Các tòa án cũng làm như vậy khi những người Điếc xuất hiện trước tòa, với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn. Mĩ giải thích rằng, lần đầu tiên phiên dịch cho tòa, cô vẫn còn là nhân viên của trường Hy Vọng C. Lúc đó chỉ biết sử dụng phương pháp nói nên mong bị cáo Điếc sử dụng tiếng Việt nói được. Tuy nhiên, anh thì không, và khi anh cố gắng làm như vậy, cô không thể hiểu được anh. Giờ đây, sau khi đã làm việc cho DAGD được 10 năm, Mĩ sử dụng NNKH TP HCM khi cô được yêu cầu thông dịch tại trụ sở cơ quan công an hoặc trước tòa. Theo một trong những người điều hành DAGD và Mĩ, trong phần cuối của thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI và đầu những năm 2010, cả cảnh sát và tòa án đều không coi NNKH TP HCM-phiên dịch tiếng Việt là một nghề. Ví dụ, vào mùa xuân năm 2009, Mỹ được yêu cầu thông dịch cho một phiên tòa liên quan đến một vụ cướp. Trong thời gian diễn ra phiên tòa kéo dài một tuần, ngày nào cô cũng đến tòa án, làm việc một mình, cuối tuần cán bộ tòa án không cảm ơn công việc của cô; thay vào đó, một chuyên viên cấp dưới đã gọi cô vào văn phòng của mình và đưa cho cô 50.000 đồng Việt Nam, tương đương khoảng 3 đô la Mỹ. Mĩ coi đây là một sự sỉ nhục và nói: “Sẽ tốt hơn nếu anh ấy nói “cảm ơn.”
18.Thành tích của APCD trong việc cung cấp quyền tiếp cận cho những người tham gia Điếc thật đáng thất vọng. Năm 1996, Eiichi Takada, khi đó là giám đốc Ban thư ký khu vực của Liên đoàn Điếc Thế giới khu vực Châu Á và Thái Bình Dương, đã báo cáo rằng khi anh tham dự Chiến dịch '95, một hội nghị APCD được tổ chức tại Jakarta, Indonesia, để chuẩn bị cho Thập kỷ Châu Á - Thái Bình Dương về Người Khuyết tật, APCD không thể cung cấp phiên dịch viên cho những người tham dự tại địa phương. Takada đã mang theo thông dịch viên của riêng mình. Ông tạm dừng cuộc họp và yêu cầu thông dịch viên Ngôn ngữ ký hiệu Nhật Bản phiên dịch từ sân khấu. “Yêu cầu này đã được chấp thuận”, Takada báo cáo với Liên đoàn Tin tức về Người Điếc Thế giới, và với điều này, “những người tham gia đã biết về sự hiện diện của Người Điếc tại hội nghị” (Takada, 1996, trang 28). Hơn 12 năm sau, cuộc họp tháng 1 năm 2009 của APCD tại Hà Nội cho thấy không có sự cải thiện nào về trách nhiệm giải trình của APCD đối với các dịch vụ phiên dịch.
19. Vào tháng 7 năm 2010, HIC của Trung tâm Phát triển và Câu lạc bộ Văn hóa Người Điếc TP.HCM đều là các nhóm không chính thức.
20. Đây cũng chính là người mà tôi đã thảo luận ở Chương 1 và người đã xuất hiện trên truyền hình trong chương trình phát sóng “310 năm Đồng Nai”.
21. Trong khi thảo luận về việc giáo dục cộng đồng về khả năng nghe người khác, một trưởng câu lạc bộ đã nói: |Khi bạn gặp những người đang nghe và họ hỏi về người Điếc hoặc ngôn ngữ ký hiệu, điều quan trọng là bạn phải cung cấp cho họ thông tin phù hợp. Một số người Điếc không biết phải nói gì. Đây là những điều chúng ta nói đến ở đây.|
22. Xem Burch (2000) để thảo luận về những phát hiện tương tự trong quá trình kiểm tra nhận dạng ngôn ngữ của người Điếc ở Nga.
23.LeMaster (2003), Nakamura (2006), và Reilly và Reilly (2005) ghi lại sự phát triển của các loại ngôn ngữ ký hiệu ở Ireland, Nhật Bản và Thái Lan, đã xuất hiện trong bối cảnh sử dụng tương đương và thuần tập (tức là không thông qua hướng dẫn trực tiếp hoặc sử dụng làm ngôn ngữ giảng dạy).