Skip to main content

Deaf to the Marrow: Chương 2. Tầm quan trọng của ngôn ngữ ký hiệu và sự hình thành Nhà nước

Deaf to the Marrow
Chương 2. Tầm quan trọng của ngôn ngữ ký hiệu và sự hình thành Nhà nước
    • Notifications
    • Privacy
  • Project HomeĐiếc tủy
  • Projects
  • Learn more about Manifold

Notes

Show the following:

  • Annotations
  • Resources
Search within:

Adjust appearance:

  • font
    Font style
  • color scheme
  • Margins
table of contents
  1. Điếc tủy
  2. Mục lục
  3. Lời mở đầu
  4. Giới thiệu về ấn bản tiếng Việt
    1. Viện Hành động vì Phát triển Cộng đồng
    2. Nguyễn Thị Lan Anh
    3. Ms. Nguyen Thi Lan Anh
    4. Chị Nguyễn Thị Lan Anh
    5. Lê Trang Nhung
  5. Lời cảm ơn
  6. Các từ viết tắt
  7. Các khu vực nghiên cứu ở Việt Nam
  8. Giới thiệu
    1. Giáo dục cho người Điếc và tổ chức cộng đồng cho người Điếc tại Việt Nam: Những địa điểm hình thành cơ cấu chính trị xã hội
      1. Tư tưởng ngôn ngữ, Trường chuyên biệt, và Hành động của những nhà tổ chức xã hội cho người Điếc
    2. Giáo dục dưới góc độ sự tham gia của công dân: Thông thạo ngôn ngữ bằng ký hiệu và quyền tự quyết
    3. Ý nghĩa của sự chủ động tham gia và đóng góp
    4. Phương pháp nghiên cứu và Mối quan tâm về Đạo đức
      1. Sự tham gia xã hội dựa trên việc phiên dịch NNKH
    5. Phương pháp nghiên cứu và các mối quan tâm về đạo đức
      1. Nghiên cứu, Tiếp thu ngôn ngữ và Xã hội hóa
      2. Quyền tiếp cận và các đặc quyền khác của nhà nghiên cứu
      3. Các yếu tố và quy ước về dịch thuật
      4. Bố cục của cuốn sách
  9. Chương 1. Lịch sử và bối cảnh kinh tế chính trị của ngôn ngữ và khả năng đọc viết
    1. Giới thiệu về các địa điểm nghiên cứu, ngôn ngữ và chính trị ngôn ngữ
    2. Tìm về lịch sử Ngôn ngữ và Khả năng đọc viết trong chương trình giáo dục người Điếc Việt Nam đương đại
    3. Nghiên cứu quá trình hiện đại hóa quốc gia, ngôn ngữ và giáo dục
      1. Các diễn ngôn về hiện đại hóa và hiện đại hóa ngôn ngữ
      2. Quản lý ngôn ngữ và khả năng đọc viết ở Việt Nam
      3. Thời kỳ chống thực dân và Hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa sơ khai
    4. Hiện đại hóa trong bối cảnh thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phân tầng giáo dục
    5. Kết luận
  10. Chương 2. Tầm quan trọng của ngôn ngữ ký hiệu và sự hình thành Nhà nước
    1. Tranh luận về Nói với phát ngôn và ngôn ngữ ký hiệu
    2. Chủ nghĩa tự do phương Tây, Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học và sự dịch chuyển xã hội của cơ thể và ngôn ngữ
      1. Khoa học xã hội Hướng tới và rời bỏ các Quốc gia, Ngôn ngữ và ngôn ngữ cơ thể
    3. Tăng cường lý thuyết về Nhà nước: Tầm quan trọng của Mô tả Dân tộc học
      1. 4 phương pháp cho chính phủ/Nhà nước: Tầm quan trọng của ngôn ngữ và cơ thể tới phân tích chính trị xã hội
    4. Kết luận
  11. Chương 3. Giáo dục cho người Điếc và Tổ chức xã hội cho người Điếc: Các địa địa điểm hòa nhập và loại trừ xã hội
    1. Sự hình thành Nhà nước, Giáo dục, các tổ chức của Người Điếc và Quan niệm về Người khuyết tật ở Việt Nam
      1. Địa lý chính trị, Kinh tế, Khuyết tật: Sự điều chỉnh của Nhà nước về các Tình trạng Đặc biệt
    2. NGU NGỐC|, |ĐIÊN RỒ|, |LƯỜI BIẾNG|, và |ĐỒNG TÍNH|: NNKH TP HCM và ngoại hình như là khêu gợi xã hội
    3. Giới thiệu về Ba bối cảnh nghiên cứu chính và hàm ý cho sự hình thành chính trị xã hội
      1. Các trường Giáo Dục Đặc Biệt cho người Điếc
      2. Kết quả của các trường giáo dục đặc biệt cho trẻ Điếc
      3. Dự án Giáo Dục
      4. CLB người Điếc TP.HCM
    4. Bản sắc xã hội-ngôn ngữ mới nổi và chính trị xã hội
    5. Kết luận
  12. Chương 4. Là người Việt Nam và Điếc Tủy
    1. Công: Khát vọng giáo dục, Chiến lược học tập đồng đẳng và tổ chức vì sự thay đổi xã hội của người Điếc Công là một trong những giáo viên NNKH TP.HCM đầu tiên của tôi, và hiện vẫn dạy tôi học. Những câu chuyện Công chia sẻ với tôi cho thấy những ảnh hưởng của hệ tư tưởng ngôn ngữ đối với việc thiết kế hệ thống giáo dục, khát vọng học hành cũng như các sáng kiến thay đổi xã hội của người Điếc1. Những câu chuyện này cũng minh họa bản chất của việc xã hội hóa người Điếc và các chiến lược học tập đồng đẳng nhằm thúc đẩy việc tiếp thu ngôn ngữ tự nhiên, bản sắc ngôn ngữ xã hội của người Điếc và sự hình thành chính trị xã hội của người Điếc. Khi Công lên mười tuổi, bố mẹ cho anh vào học tại trường Xã Đàn, Hà Nội. Tại thời điểm năm 1988, Xã Đàn là trường duy nhất dành cho học sinh Điếc ở thủ đô2. Sau ba năm học, cha mẹ Công không hài lòng với kết quả học tập của anh. Công giải thích: “Thầy cô giáo ở trưởng ít dùng ký hiệu, chủ yếu nói tiếng Việt để giảng bài. Một số học sinh dùng ký hiệu với n
    2. Tương tác ngôn ngữ tự nhiên dưới góc độ sự tham gia tích cực của công dân
    3. Quyền tự quyết về ngôn ngữ và đặc điểm xã hội của địa điểm nghiên cứu
    4. Ba bức tranh: Sử dụng ngôn ngữ, tư tưởng và phản biện xã hội trong các lớp học của trường chuyên biệt và dự án giáo dục và tại các buổi họp của câu lạc bộ người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh
      1. Lớp học tại trường chuyên biệt: Một buổi học về Giáo dục Công dân
      2. Lớp học tại Dự án Giáo dục: Tiết học về một bài học lịch sử
      3. Các buổi sinh hoạt của CLB Người Điếc TP. Hồ Chí Minh: Hướng đến mục tiêu thay đổi xã hội
    5. Đa ngôn ngữ: Thể chế hóa việc [Sử dụng Ngôn ngữ] Thông thạo và Không thông thạo
    6. Kết luận
  13. (Untitled)
  14. Chương 5. Người Điếc bị gạt ra ngoài lề xã hội sau thống nhất, thay đổi xã hội do người Điếc dẫn dắt và phát triển hướng đến người khuyết tật
    1. Chuyển đổi thị trường-xã hội chủ nghĩa
      1. Các vấn đề sau thống nhất và tiếp xúc xuyên quốc gia
    2. Cơ sở về Ngành Phát triển liên quan đến Người khuyết tật của Việt Nam
    3. Trong bóng tối của sự Khuyết tật: Chuẩn hóa Ngôn ngữ và sự Tự quyết định Tập thể của người Điếc
    4. Viện trợ Từ thiện Quốc gia, Phát triển Quốc tế liên quan đến Người khuyết tật và Mục tiêu Xã hội cho người Điếc: Công bằng, không phải Từ thiện
    5. Kết luận
  15. Chương 6. Tư cách công dân dựa trên NNKH TP.HCM và tương lai thị trường xã hội chủ nghĩa: Tương tác trong môi trường khuyết tật
    1. Nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tại Việt Nam
    2. Hồi sinh Chủ nghĩa Truyền thống: Khi người Điếc là lao động chân tay
      1. Tiếp thị Café và Kiểm duyệt: Bức họa về sự kiểm soát của truyền thông đối với nhân viên Điếc và những vị khách quen tại Café Lặng
    3. |ĐIẾC| hay |KHIẾM THÍNH|: Các điều khoản ưu đãi và các diễn thuyết được nhà nước công nhận
    4. Tổ chức xã hội của người Điếc và Quyền tự quyết trong nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tật
      1. Phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt
      2. Hội Thảo: Phiên dịch viên Ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh
      3. Giảng dạy NNKH TP.HCM và sự công nhận của Nhà nước
      4. Sự công nhận của Nhà nước đối với Câu lạc bộ Người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh và các Câu lạc bộ và Hội người Điếc trên toàn quốc
    5. Sự tham gia của Nhà nước Việt Nam thông qua Quyền Công dân Điếc Tích cực
    6. Kết luận
  16. Chương 7. Kết luận
  17. Tài liệu tham khảo

Chương 2. Tầm quan trọng của ngôn ngữ ký hiệu và sự hình thành Nhà nước

Việc hiểu về lịch sử địa lý và chính trị của Việt Nam sẽ hỗ trợ cho bạn hiểu thêm sâu hơn về những chuyển đổi thể chế và chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc hiểu những vấn đề này sẽ cung cấp thông tin tốt hơn cho sự hình thành hệ thống giáo dục tại Việt Nam - mà tôi cho rằng nó ảnh hưởng mạnh mẽ bởi hệ tư tưởng liên quan đến ngôn ngữ và nội hàm phân tích liên quan đến ngôn ngữ từ quy mô, địa điểm và các lĩnh vực khác nhau. Trong lý thuyết khoa học xã hội thời kỳ cận đại, có ba cách tiếp cận chính để nghiên cứu về trạng thái có liên quan đến cuốn sách này: Trạng thái như tác nhân, trạng thái như hiệu ứng và trạng thái tưởng tượng. Ngoài ra ta còn có thể tính đến trạng thái là sự đóng góp, trạng thái này có thể coi là trạng thái thứ 4. Tôi cho rằng vấn đề dân tộc học về các tương tác xã hội học ở cấp độ vi mô sẽ cung cấp những hiểu biết độc đáo về sự hình thành và thay đổi trạng thái ở cấp vĩ mô hơn. Tầm quan trọng của phương pháp tiếp cận hiện thân như tôi sẽ thảo luận chi tiết ngay sau đây là sự tập trung chú ý phân tích vào tương tác giữa các trạng thái với các tác nhân mà có thể coi là chủ thể của trạng thái. Những cán bộ thuộc các đơn vị quản lý nhà nước có thể coi là những người mà tiếng nói của họ có thể coi là tính hợp pháp và có thẩm quyền trong việc ra quyết định của các đơn vị quản lý nhà nước đó. Chủ thể là con người, trong trường hợp này học sinh Điếc và các tổ chức xã hội, mà ngôn ngữ của họ thường được mang tính đại diện cho việc tham gia vào các thể chế của chính phủ; hơn thế nữa, nếu người Điếc tham gia vào các đơn vị thể chế của chính phủ này thì đa phần họ rất ít hoặc là không có vị thế hay tiếng nói tại đây.

Phân tích mà tôi theo đuổi trong chương này tập trung vào những hiểu biết sâu sắc về nghiên cứu về các mô hình và lĩnh vực chi tiết là thúc đẩy việc tạo ra các hiểu biết lý thuyết mới. Tuy nhiên, trong chương này và xuyên suốt quyển sách này, tôi quan tâm nhất đến ý nghĩa sâu sắc của những nỗ lực hình thành lên các tổ chức của người Điếc. Đó là mô tả của tôi hướng tới cách thức mà các tác nhân do con người tạo ra và làm thay đổi quan điểm về tính hợp pháp và thẩm quyền của các tác nhân đó về thực hành xã hội học.

Một ví dụ từ Việt Nam cho thấy tầm quan trọng (nếu không phải là sự cần thiết) của dân tộc học trong việc kiểm tra các tương tác như vậy. Phân tích vi mô hơn của hai bối cảnh cho ta thấy rằng các chủ thể ở đây là của cộng đồng người Điếc đã đạt được sự cho phép và mang tính hợp pháp cho quan điểm của họ về NNKH TP HCM trong một hội thảo về sự cần thiết của NNKH TP HCM và Phiên dịch ngôn ngữ tiếng Việt (Cooper & Nguyễn, 2015, p. 122). Tương tự cũng đúng với một phỏng vấn trên kênh truyền hình, khi người Điếc (như chủ thể của Nhà nước quốc gia) đã “gọi là” bộ kiến thức được kết nối với nghiên cứu về NNKH cho cung cấp thông tin thông qua các thuật ngữ chuyên ngành (cấu trúc ngữ pháp, ngữ pháp đơn giản), [và] và các nhận xét định hình ở dạng dễ nhận biết (đối với các cơ quan nhà nước) như nhận xét của giáo viên. Trong các thiết lập này, các nhân viên giáo dục (hiệu trưởng và giáo viên trường chuyên biệt giáo dục dành cho người Điếc) đã chứng minh những thay đổi trong thái độ và cách gọi 2 cụm từ đối với KHIẾM THÍNH [không công nhận tư cách con người] và NGƯỜI ĐIẾC [công nhận của con người] được chứng minh bằng sự thay đổi từ việc đề cập đến người khiếm thính ở ngôi thứ ba, và bằng cách chuyển từ việc gọi họ là người khiếm thính sang người Điếc. Các đại diện của cơ quan chính phủ đã đặt những hỏi trực tiếp với người Điếc đang trình bày (chứ không phải là hỏi thông qua người không Điếc đang trình bày cùng) và mời các diễn giả Điếc đến hỗ trợ giảng dạy tại trường học của họ. Việc chứng kiến và ghi lại video những sự kiện như thế này đã tạo điều kiện cho việc phân tích các cách mà các tương tác của người không Điếc phản hồi, lập chỉ mục và phản ánh về kiến thức và năng lực nhận thức của người Điếc để biến đổi "trạng thái" ở cấp độ tương tác và hơn thế nữa, được chứng minh trong các cuộc phỏng vấn tiếp theo, các sự kiện cộng đồng, những thay đổi trong các chương trình dạy tại trường học, v.v.

Tôi có một ví dụ thứ hai từ một cuộc họp năm 2014 giữa các nhà lãnh đạo giáo dục và những người người khuyết tật, được báo cáo rộng rãi bởi các cơ quan truyền thông quốc gia. Các tương tác được báo cáo cho cuộc họp đó chỉ ra rằng sự can thiệp của nhà nước vào NNKH Việt Nam đang là ưu thế so với các đặc điểm và còn hạn chế trong việc đào tạo cũng như xây dựng được các chương trình chính quy – mặc dù việc sử dụng “ngôn ngữ ký hiệu” đã được chính thức hóa trong Luật Người khuyết tật 2010 và trong phê chuẩn năm 2015 của Công ước về Quyền của Người khuyết tật. Ví dụ, các thành viên cộng đồng người Điếc thường mô tả là ngôn ngữ mẹ đẻ và bản sắc xã hội học của họ thường bị bỏ qua; thực sự, người Điếc thậm chí có thể không được mời đến các cuộc họp mà chắc chắn cần phải có tiếng nói của họ, quyền có “ngôn ngữ” của họ . . . đúng như các trường hợp ta thảo luận dưới đây.

Ngày 9 tháng 12 năm 2014, trong tờ báo Giáo Dục và Thời Đại, đã có bài viết của Giáo sư Lê Văn Tạc, lúc đó là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu giáo dục đặc biệt của Viện nghiên cứu giáo dục đặc biệt quốc gia đã chia sẻ trong một hội thảo do Hội người khuyết tật thành phố Hà Nội tổ chức.1 Chủ đề của hội thảo là “vận động các nhà hoạch định chính sách giáo dục đưa việc dạy NNKH và văn hóa cho người khiếm thính là một trong những nhiệm vụ của các trung tâm giáo dục thường xuyên”.2

Là một trong những người lãnh đạo giáo dục chuyên biệt, nổi tiếng với sự lãnh đạo của ông trong các sáng kiến giáo dục chuyên biệt và giáo dục hòa nhập, sự kiện diện của giáo sư Lê Văn Tạc có thể cho thấy tầm quan trọng của các đơn vị quản lý giáo dục nhà nước cần quan tâm đến những đề xuất của Hội người khuyết tật. Phát biểu của ông sau đó nhấn mạnh rõ sự cần thiết “cấp bách” đối với cam kết của nhà nước với “NNKH cho người Điếc ở Việt Nam):3

Việc nghiên cứu, thống nhất và phổ biến ngôn ngữ ký hiệu cho người Điếc ở Việt Nam đang là nhu cầu khách quan, bức thiết, cần được quan tâm, đầu tư nghiêm túc về chương trình và chính sách hỗ trợ.

Trong thập kỷ vừa qua, sự chú ý của nhà nước đối với các ngôn ngữ ký hiệu được nhắc đến đáng kể. Điều này được chứng minh bằng sự gia tăng của các phóng sự, bản tin có khung hình với phiên dịch NNKH, có hình ảnh về người Điếc tài năng cũng như chia sẻ những ước mơ của họ, hoặc ấn bản những câu chuyện quan tâm của công chúng về tình yêu và hỗ trợ các gia đình người Điếc để họ hiểu và sử dụng NNKH Việt Nam4. Điều này chứng minh được bằng việc thông qua Luật người khuyết tật năm 2010 (Bộ luật đầu tiên có nhắc đến NNKH và sử dụng NNKH trong giáo dục); các tổ chức cộng đồng và các dự án của các tổ chức phi chính phủ quốc tế đã cùng ký cam kết đào tạo NNKH và hỗ trợ sự tham gia của người Điếc; năm 2012 Việt Nam chính thức có tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm Điếc đầu tiên làm giáo viên trường chuyên biệt; năm 2015 Việt nam chính thức phê chuẩn Công ước LHQ về quyền của NKT và bài phát biểu quan trọng của giáo sư Lê Văn Tạc.5

Trong bối cảnh các phương tiện truyền thông đại chúng và sự tương tác của các trang web và hành động thực tế là mối quan hệ giữa sự chỉ đạo của chính phủ với các chương trình nghị sự quốc gia và địa chính trị, và quản lý nhà nước hướng tới việc người Điếc có thể tham gia và sử dụng NNKH Việt Nam để có thể kết nối với các chương trình nghị sự này. Trong các tuyên bố của chính phủ và trên các phương tiện truyền thông, 'ngôn ngữ ký hiệu' thường được tham chiếu như là một hình thức phục vụ số ít, và chính phủ chưa chú trọng lắm đến việc sử dụng NNKH một cách rộng rãi. Ví dụ, trong đoạn trích được đưa ra trước đây, Giáo sư Lê Văn Tạc không khuyến khích các nghiên cứu NNKH không chính thức trong các nhóm cộng đồng tại Việt Nam (Cooper, 2015; Cooper & Nguyễn, 2015) hoặc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ (Cooper, 2014; Woodward, 2003; Woodward et al., 2004; Woodward & Nguyễn, 2012). Thay vào đó những nhận xét của Giáo sư Lê Văn Tạc là cần thúc đẩy việc nghiên cứu một “NNKH thống nhất và chung nhất”. Điểm này được chính thức thể chế hoá NNKH Việt Nam kể từ năm 2006, khi Thủ tướng chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ký chỉ thị số 01/2006/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp NKT trong tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Trong đó có mục số 3 là giao Bộ giáo dục và đào tạo

Xây dựng trình thủ tướng chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia về giáo dục trẻ khuyết tật giai đoạn 2006-2010. . . . Thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật/tàn tật về ngôn ngữ trong phạm vi cả nước.

Tương như một chỉ thị chính thức tập trung vào phát triển kinh tế và xã hội, Chỉ thị số 01/2006/CT-TTg thể hiện một mệnh lệnh từ lãnh đạo cấp cao để trợ giúp đối với "người khuyết tật hoặc tàn tật" như một chiến lược quốc gia. Sự hiện diện của các loại ngôn ngữ ký hiệu hiện có không được đề cập trong chỉ thị, cũng như chỉ thị đã nêu rõ cách "thống nhất" ngôn ngữ ký hiệu được cho là một tương ứng với "ngôn ngữ chính thống dành cho người Điếc của đất nước". Đó là, chỉ thị không chi tiết hoá việc xây dựng ngữ pháp NNKT Việt Nam nên được chuyển đổi thế nào từ ngôn ngữ chữ Việt thông thường (Woodward, 2003; Woodward & Nguyễn, 2012) – đây cũng có thể coi là một thành tựu rất đáng nể mà không phải ngôn ngữ nào khác cũng có thể đạt được.

Trong bối cảnh các trường hợp chỉ mô tả thống nhất ngôn ngữ này, các ngôn ngữ khác sẽ bị nhắm đến mục tiêu sửa đổi hoặc quản lý để có thể không còn tồn tại6 – điều này được mô tả khác nhau trong các tài liệu ngôn ngữ và nhân chủng học là “sự thay đổi ngôn ngữ” (Fishman, 1971, 1991), “cái chết của ngôn ngữ” (Crystal, 2000, Mufwene, 2004) và "diệt chủng ngôn ngữ" (Skutnabb-Kangas, 2000). Trong khi tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ là một yêu cầu bắt buộc của chính phủ ngày càng phổ biến cho (ngôn ngữ nói và) ngôn ngữ ký hiệu, khả năng thay đổi lại các kế hoạch bắt buộc như vậy thường bị cộng đồng phản kháng lại khi họ đã quen dùng các NNKH địa phương. Họ đã có các sáng tạo ra các từ mới trước đó cũng như văn hoá địa phương đã ăn sâu vào tâm trí họ. Điều này sẽ dẫn đến việc tranh luận học thuật cao hơn nữa và rất khó thống nhất.

Tranh luận về Nói với phát ngôn và ngôn ngữ ký hiệu

Có mặt trong mọi kỷ nguyên kể từ khi bắt đầu những gì đã được ghi nhận về giáo dục chính thức của học sinh Điếc (ví dụ, khoảng giữa những năm 1600 ở Anh, giữa những năm 1700 ở Pháp), đã có sự tranh luận, so sánh giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ ký hiệu có thể chứng tỏ sự tồn tại song song của 2 dạng giao tiếp này chứ không phải chỉ có mỗi ngôn ngữ “nghe nói” như ta nhầm tưởng trước đây. Như đã thảo luận trong chương 2 này, sự kết hợp chặt chẽ của tư tưởng với ngôn ngữ nói được ghi lại trong truyền thống phương Tây sớm nhất là các tác phẩm của Aristotle.7 Các lệnh cấm trên toàn thế giới về việc sử dụng các ngôn ngữ ký hiệu trong giáo dục Điếc mất gần hai nghìn năm để củng cố và tương ứng với việc xây dựng đế chế Tây Âu giữa đến cuối thế kỷ XIX và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc lên đến đỉnh điểm trong các quyết định ủng hộ văn hoá truyền miệng, được thông qua tại một cuộc họp quốc tế của các giáo viên và các quản lý trường học cho học sinh Điếc tại Mi Lan, Ý vào năm 1880. Hội nghị quốc tế Mi Lan có thể coi là một tác động chính cho ngành giáo dục người Điếc, tình trạng của các ngôn ngữ ký hiệu, thực hành giao tiếp giữa người Điếc và người nghe, đặc biệt tại các nước Châu Âu và Châu Mỹ (Lane, 1984, 1992).

Tiếp nối của quyết định tại Milan, Ý đã dấy lên phong trào tranh luận về ngôn ngữ và giáo dục bằng rất nhiều hoạt động ví dụ như năm 2010 tại British Columbia đã có Đại hội Quốc tế về giáo dục dành cho người Điếc (ICED). Đây là cơ sở công bố lên án công khai nghị quyết Mi Lan tại cuộc họp lần thứ 21 của ICED ở Vancouver, Canada.8 Hơn nữa, trong nửa cuối của thế kỷ đương đại thì các bài tham luận về các cuộc tranh luận về sử dụng ký hiệu hay ngôn ngữ nói – nghe thường được chen thêm vào với sự đổi mới khoa học công nghệ, các nhóm lợi ích về cung cấp dụng cụ, dịch vụ y tế, các bác sĩ phẫu thuật, những nhà sản xuất thiết bị trợ giúp (Johnson, 2006). Tuy nhiên, tại những khu vực có phong trào mạnh mẽ, với những người lãnh đạo giàu kinh nghiệm với các nguồn tài trợ lớn thì việc vận động hành lang cho các nghiên cứu học thuật dành cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu thì lại dường như rất ít được chú ý và tài trợ cũng như ít được quan tâm từ giới chính trị.

Tại Việt Nam ngôn ngữ nói và ngôn ngữ ký hiệu thì lại rất đặc biệt, thậm chí nghị quyết Mi Lan và phong trào Mi Lan trước đó cũng không có ảnh hưởng trực tiếp nào đến đất nước này. Trường Lái Thiêu đào tạo cho người Điếc đã thành lập từ năm 1886, sau 6 năm nghị quyết Mi Lan. Theo 5 cựu sinh trường Lái Thiêu mà tôi phỏng vấn trong thảo luận nhóm, thì trường Lái Thiêu đã tiếp tục mở các khoá học NNKH cho trẻ khuyết tật sau năm 1975 thống nhất đất nước.9 Những người được phỏng vấn đã chia sẻ là các giáo viên của trường Lái Thiêu đã sử dụng “NNKH rất giỏi”. Một người được phỏng vấn đã chia sẻ thêm giáo viên trường Lái Thiêu đã ký hiệu (NNKH của giáo viên đó còn tốt hơn rất nhiều người nghe). Dù có ảnh hưởng của nghị quyết Mi Lan có thể ảnh hưởng tới Việt Nam một ngày nào đó trong tương lai hay của các đối tác phát triển quốc tế nhưng chúng ta cũng có thể thấy sự ủng hộ của chính phủ Việt Nam cho việc áp dụng phương pháp sư phạm dựa trên lời nói nhưng cũng cần đảm bảo thể chế chính sách, mà điều này cũng rất phù hợp với quyết định ban đầu trong các quyết định của chính phủ về giáo dục dành cho người Điếc ở Việt Nam (Cooper, 2014; Woodward et al., 2003; Woodward & Nguyễn, 2012).

Bất chấp những đặc điểm và sự xuất hiện của giáo dục cho người Điếc dựa trên lời nói ở những nơi khác trước đó, sự phát triển giáo dục cho người Điếc dựa trên lời nói của Việt Nam lại gắn liền với hoàn cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa xã hội vốn có. NNKH Việt Nam chưa bao giờ bị cấm chính thức cho đến năm 2010 và tiếp tục về sau này, NNKH Việt Nam luôn được ngầm hiểu là không chính thức hoặc chưa phải là chính thống (Cooper & Nguyễn, 2015).

Một người cha của một bé gái Điếc, một người đàn ông đã đồng sáng lập ra trường giáo dục chuyên biệt đầu tiên về NNKH TP HCM tại Tp HCM đã diễn giải ngôn ngữ nói và NNKH theo cách sau đây: “Đã có 3 nhóm và hiện vẫn còn tồn tại 3 nhóm- họ tin tưởng rằng có 3 nhóm là: Ngôn ngữ nói là duy nhất, ngôn ngôn ngữ ký hiệu và nhóm còn lại tin là cần tồn tại song song cả ngôn ngữ ký hiệu và ngôn ngữ lời nói. Nhưng không được đào tạo hay tập huấn về vấn đề này nên các nhóm này cứ giữ nguyên cái niềm tin đó”.

Điểm tương đồng trong nhận định của người cha này nên trong vòng 5 năm đầu đời của trường dạy NNKH đầu tiên, ông ấy đã biết phương pháp dạy học bằng cách sử dụng ngôn ngữ lời nói đã không hiệu quả; thậm chí ông ấy cũng đã không thể dừng lại phương pháp dạy học này vì niềm tin của mọi người, đặc biệt là ngôn ngữ tiếng Việt nghe nói được.10 Người cha/người đồng sáng lập trường chuyên biệt cũng đã giải thích thêm là, vào giữa những năm 1980, cộng đồng xã hội đã từng tin rằng cha mẹ của những đứa trẻ Điếc đó đã làm điều gì đó sai trái. Vì thế, khi những đứa trẻ Điếc đó đi học ở trường khi gặp cha mẹ chúng cần phải nói được ít nhất 2 từ “Ba, má”. Đây chính là sức mạnh truyền cho những người làm cha mẹ đó là những đứa con Điếc của họ có khả năng hồi phục và hòa nhập xã hội, giúp cho họ không bị xã hội kỳ thị và có thể đóng góp được cho sự phát triển của quốc gia.11

Những năm cuối của những năm 1980, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các chính sách giáo dục dựa trên ngôn ngữ nói, thể chế hóa bằng cách áp dụng toàn quốc phương pháp giáo dục này cho việc xây dựng các hệ thống trường học chuyên biệt dành cho người Điếc. Cũng như giải thích trong phần giới thiệu, điều này cũng tiếp tục được phát triển vào giữa những năm 1990 với hệ thống giáo dục hòa nhập (IE): Những người lập kế hoạch cho hệ thống giáo dục hòa nhập đã định nghĩa là học sinh Điếc cần phải được tham gia vào các lớp học hòa nhập thông thường, nơi trẻ có thể được hòa nhập với các học sinh người nghe nói trong cùng một môi trường. Ngày nay, nhiều thập kỷ đã qua với sự đổi mới của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, các trường giáo dục chuyên biệt dành cho người Điếc và hệ thống giáo dục hòa nhập tiếp tục bằng nhiều hình thức khuyến khích và không khuyến khích sử dụng NNKH Việt Nam, mặc dù chính sách về khuyết tật chính thức quy định quyền sử dụng ngôn ngữ ký hiệu trong giáo dục của học sinh. Các yếu tố đáng kể góp phần vào những trường hợp này bao gồm: (1) sự không chắc chắn của một phần nhân viên trường học chuyên biệt về NNKH tp HCM sẽ là gì, cách sử dụng nó ra sao, điều gì đang diễn ra xung quanh và liệu nó có nên được sử dụng như một phương thức giảng dạy hay không?; (2) thiếu đào tạo hoặc đào tạo lại về định hướng giáo dục Điếc; và (3) các cuộc tranh luận các cấp các ngành đang diễn ra về tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ không khuyến khích giáo viên nhà trường học một ngôn ngữ mới mà biết đâu sau này họ có thể được yêu cầu thay thế cách dạy và học sau một hoặc hai năm tới. Cũng liên quan đến chương trình học, độc giả có thể theo dõi một nhận xét của một thành viên tham gia nghiên cứu này:

Mây (một học sinh đã tốt nghiệp trường cao đẳng giáo dục và là một hướng dẫn viên về NNKH TP.HCM): Hễ chúng cháu giơ tay phát biểu bằng NNKH, giáo viên luôn có yêu cầu chúng chúng bỏ tay xuống và phải nói thành lời. . . . giáo viên nói với bố mẹ chúng cháu là không được dùng NNKH tại nhà cho dù chúng cháu không bao giờ có thể nói được. Bây giờ chúng cháu có rất ít điều kiện và cơ hội để giao tiếp với bố mẹ. Bố mẹ cháu nói là giờ thì họ quá già để học NNKH.

Hiệu trưởng trường chuyên biệt (Hy vọng A): Nếu chúng ta để họ (học sinh Điếc) dùng NNKH, họ sẽ không bao giờ nói được. Khi nói được họ sẽ có được cơ hội tốt hơn trong cộng đồng.

Cán bộ nghiên cứu: Vậy khi học sinh tốt nghiệp trường học này thì họ có nói được không ạ?

Hiệu trưởng: Không, và thậm chí họ còn chẳng viết được - họ không có vốn từ. Họ không thể giao tiếp. Chúng tôi làm việc với người Điếc. chúng tôi không có tập huấn. Vì thế ai sẽ là người để chúng tôi hỏi thông tin đây? . . . vì thế khi chúng tôi đặt câu hỏi trong lớp học và học sinh trả lời sai và chúng tôi cũng không biết vì sao bị sai vậy.

Cán bộ nghiên cứu: Vậy nếu học sinh Điếc trả lời bằng NNKH tp HCM thì sao?

Hiệu trưởng: Chúng tôi có trải nghiệm là “người Điếc ngược”. Họ hay trả lời sai ngữ pháp.

Đối với các mối quan hệ giữa hệ tư tưởng ngôn ngữ, cấu trúc nhà nước, quyền lực xã hội và chính trị - kinh tế (được xem xét trong chương này và trong chương 3), không có gì ngạc nhiên khi một số cộng đồng người Điếc có thể ủng hộ việc tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ ký hiệu như một ngôn ngữ chính thống ngay tại chính quốc gia của họ, với các đối tác quốc tế, hoặc thay mặt cho các nhóm sử dụng ngôn ngữ ký hiệu ở các quốc gia khác (xem chương 5 để thảo luận sâu hơn về tiêu chuẩn hóa). Tại Hoa Kỳ, Frances M. Parsons nổi tiếng với sự ủng hộ trung thành của Truyền thông Tổng thể (TC) (1988), và việc xuất khẩu truyền thông tổng thể sang các nước trên thế giới đã nhận được cả lời khen và lời chỉ trích. Andrew J. Foster quốc tịch Mỹ đã thành lập 32 trường truyền giáo cho người Điếc ở 13 quốc gia châu Phi sử dụng Ngôn ngữ ký hiệu Mỹ làm ngôn ngữ giảng dạy (Agboola, 2014; Kiyaga & Moores, 2003; Schmaling, 2001) và được nhiều người coi là “cha đẻ” về giáo dục người Điếc ở Châu Phi (Ilabor, 2009). Những di sản về giáo dục và công việc truyền giáo của Foster trên lục địa châu Phi là rất nhiều và được coi là khác nhau, như được chỉ ra trong cuộc kiểm tra phê bình gần đây về các tính năng của nó (xem Lutalo-Kiingi & De Clerck, 2015, trên báo chí; Kusters, 2014, 2015a, 2015b; Moges, 2015).

Công việc của Soya Mori ở Đông Nam Á cung cấp một ví dụ khác, ông, một chuyên gia về kinh tế Nhật Bản chuyên về khuyết tật và phát triển, ủng hộ một hình thức chuẩn hóa của ngôn ngữ ký hiệu Myanmar, theo ông, giống với các hình thức chuẩn hóa của ngôn ngữ ký hiệu được tìm thấy "ở Hoa Kỳ và Nhật Bản ” (2011, tr. 334). Mori cũng lập luận rằng việc chuẩn hóa các ngôn ngữ này “diễn ra một cách tự nhiên như một phần của sự phát triển cộng đồng người Điếc” (sđd). Cả hai tuyên bố này đều rất dễ gây tranh cãi và nảy ra các cuộc tranh cãi.12 Các ví dụ từ Parsons, Foster và Mori cho thấy những sáng kiến có liên quan đến cả chính sách ngôn ngữ ký hiệu và giáo dục người Điếc ở các quốc gia ngoài quốc gia, cũng như về người Điếc và học giả, trong số những người khác. Những hoàn cảnh này giống với Việt Nam, với việc Komitee Twee ban hành chương trình giáo dục cho người Điếc dựa trên giọng nói ngay sau khi đất nước này bắt đầu chính sách mở cửa vào năm 1986.13 Chúng cũng giống với những tranh cãi đương thời về việc chuẩn hóa và đa dạng ngôn ngữ ký ở Việt Nam, đặc biệt là giữa những người ủng hộ việc sử dụng các ngôn ngữ ký hiệu tự nhiên (ví dụ: NNKH TP HCM, Ngôn ngữ ký hiệu Hà Nội) và những người ủng hộ việc ký hiệu theo trật tự từ tiếng Việt (xem chương 3 và 4 để thảo luận chi tiết về các vấn đề này).

Ảnh hưởng đến những người không được tiếp cận quyền công dân, các cá nhân Điếc, các nhà tổ chức xã hội và gia đình của họ phải điều hướng sự tham gia với các tổ chức nhà nước, những người có thể đã có liên kết với các thực thể theo đuổi chương trình nghị sự dựa trên lời nói hoặc ký hiệu cụ thể. Chính trạng thái sau đó có vai trò mạnh mẽ trong việc xác định hình dạng của các chính sách và lập trình ngôn ngữ — cái mà Blommaert gọi là “tập đoàn của hình thức và tải trọng” (2005, trang 393); nghĩa là, ngôn ngữ (cách sử dụng, bản sắc, hệ tư tưởng) là ảnh hưởng của cả cách thức quy ước hóa mà mọi người cam kết thực hiện hoặc nói cùng nhau và các nguồn lực xã hội có sẵn cho họ. Do đó, các quốc gia được trao quyền để đặt ra các điều khoản — luật, chính sách, sự định đoạt kinh tế, v.v. — theo đó các cá nhân và nhóm nhất định được tham gia và những người còn lại bị. Đây không phải là một quan sát mới, nhưng sự bất bình đẳng xã hội vẫn chưa được xem xét về mặt dân tộc học theo cách thức hoặc độ sâu mà Blommaert (2005) cho là cần thiết nếu chúng ta muốn hiểu sự phân bố xã hội của các nguồn ngôn ngữ giữa và trong các quốc gia- lãnh thổ.

Việc Blommaert kiểm tra các phương pháp tiếp cận xã hội học đối với quyền ngôn ngữ rất hữu ích cho việc suy nghĩ về các cách mà các nhà lãnh đạo cộng đồng người Điếc phát triển các hoạt động, thông tin công cộng và chương trình nghiên cứu trong bối cảnh thành viên của họ ở các quốc gia cụ thể và để đáp ứng các cấu trúc và chính sách cụ thể của nhà nước. Một số nhóm Điếc cũng đang tiến hành những nỗ lực như vậy với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, bao gồm những nhóm được mô tả trong Cooper và Nguyễn (2015), De Clerck (2011), Hochgesang (2015), Kusters (2012, 2015b), Lutalo-Kiingi và De Clerck (2015) và Moriarty Harrelson (2015).14 Phê phán sự say mê của các nhà xã hội học đối với “ đặt tên ngôn ngữ” qua những mô tả về “sự khác biệt trong phức hợp ngôn ngữ” (2005, trang 391), Blommaert lập luận rằng không phải ngôn ngữ tạo ra hoặc phá bỏ bất bình đẳng mà là “cách các nguồn ngôn ngữ thực sự được sử dụng, và những điều kiện nào, trong các xã hội thực sự ”(sđd, tr. 410). Do đó, không phải việc đặt tên cho các ngôn ngữ — hoặc theo thuật ngữ của Makoni và Pennycook (2006), là phát minh hoặc loại bỏ các ngôn ngữ — mang lại tính hợp pháp mà là “sức nặng của xã hội” của việc ghi nhận giá trị thông qua ngôn ngữ được sao chép có hệ thống để phê chuẩn các hình thức quy chuẩn của “tính nhóm” hoặc “ bản sắc” (Blommaert, 2005, tr. 393). Ở phần sau của chương này, tôi quay trở lại khuôn khổ của Blommaert (ibid.) Và tầm quan trọng phân tích của việc kiểm tra dân tộc học về các mối quan hệ giữa hành động dựa trên ngôn ngữ ký hiệu của người Điếc và sự hình thành và thay đổi của chính phủ Việt Nam.

Tại thời điểm viết bài này, NNKH TP HCM là một trường hợp mà ngôn ngữ - ban đầu được James C. Woodward (2003) đặt tên là Ngôn ngữ ký hiệu Thành phố Hồ Chí Minh - đang tồn tại và gần đây cũng đang phát triển mạnh. Như thảo luận ở trên đã chỉ ra, vòng đời được thể chế hóa của NNKH TP.HCM (cùng với các NNKH khác) là một vấn đề có tầm quan trọng cấp nhà nước — và nó đã kéo dài trong một số thập kỷ. Do đó, các đoàn thể xã hội, chính trị và kinh tế ảnh hưởng đến việc sử dụng NNKH TP.HCM (tiêu cực, tích cực, hoặc theo cách khác) sẽ có hệ quả lớn đối với cả người sử dụng NNKH TP.HCM và đối với các chủ thể nhà nước trong quá trình hình thành và quản lý nhà nước của quốc gia. Những nhóm này cũng có ý nghĩa phân tích quan trọng bởi vì, trong việc kết nối việc nghiên cứu các ngôn ngữ ký hiệu với việc hình thành nhà nước, chúng tôi có được một quan điểm về cả hai điều đó góp phần vào nỗ lực của chúng tôi để hiểu các đặc điểm của các quốc gia cụ thể và các nhóm dân cư cụ thể theo những cách chưa được khám phá trước đây.

Sau đó, nghiên cứu này cũng góp phần vào nỗ lực giảm thiểu các quan niệm về các quốc gia và quan niệm về các quần thể Người Điếc là các thực thể nguyên khối, phổ quát và tiền sử. Công trình nghiên cứu dân tộc học của Hansen và Stepputat (2006) về các tiểu bang và ngôn ngữ trong bối cảnh hậu thuộc địa làm sáng tỏ điểm này:

Thay vì nói về trạng thái như một thực thể luôn / đã bao gồm một số tính năng, chức năng và hình thức quản trị nhất định, chúng ta hãy tiếp cận mỗi trạng thái thực tế như một cấu trúc cụ thể về mặt lịch sử của một loạt các trạng thái ngôn ngữ, một số thực tế, một số biểu tượng và hiện tượng, đã được phổ biến, dịch, diễn giải và kết hợp theo nhiều cách và trình tự khác nhau trên toàn cầu. (ibid., pp. 6–7)

Áp dụng phương pháp khái niệm này cho các bài bình luận của người tham gia nghiên cứu và các dữ liệu dân tộc học khác trong nghiên cứu, tôi thấy hữu ích khi xem xét các cách thức mà các ngôn ngữ của trạng thái (hệ tư tưởng) được các tác nhân nhà nước và những người và nhóm người Điếc. Tương tự, chúng tôi chú ý đến các cách mà ngôn ngữ của người Điếc- cũng như các thuật ngữ nhận dạng chủ quan hoặc chính thức khác - được các cơ quan nhà nước và các cá nhân và nhóm người Điếc đưa ra và nhằm vào bất kỳ mục đích nào.

Thoạt nhìn, cách biện hộ của các đơn vị quản lý nhà nước thì cho rằng NNKH dựa trên lời kể và người Điếc sử dụng NNKH TP HCM thì có vẻ giống với cách mà một số nghiên cứu về người Điếc ở phía bắc đại tây dương và các tài liệu nghiên cứu về người khuyết tật phê bình đã đưa ra lý thuyết, và đôi khi đánh giá sự hình thành văn hóa Điếc và quan điểm xã hội học là đối lập ý thức xuất hiện để đối phó với các tình huống bị áp đặt (Groch, 2001; Woll & Ladd, 2011; Wrigley, 1999). Xem xét kỹ hơn, các bài biện chứng của chính phủ Việt Nam và các câu chuyện về người Điếc đều hướng tới việc huy động sự tham gia vào phát triển đất nước, đoàn kết, văn hóa dân tộc và chủ quyền địa chính trị. Cả hai cũng nhấn mạnh thuộc về gia đình và xã hội là những phương thức chính để huy động sự tham gia vào các hoạt động phát triển (xem Gammeltoft, 2014).

Giống với mô tả của Gammeltoft về sự thuộc về — và tương phản với các quan niệm về ý thức đối lập phổ biến trong tài liệu Nghiên cứu về người Điếc ở Bắc Đại Tây Dương, vốn thường gần nhau rõ ràng về bản sắc và mục tiêu của cộng đồng ĐIẾC và NGHE — các cách mà người Điếc ở miền Nam Việt Nam tưởng tượng, tham gia, tạo dựng và chuyển hóa các mối quan hệ nhà nước - xã hội thông qua NNKH TP HCM thể hiện những mô thức quan hệ phức tạp với cả NGƯỜI ĐIẾC [ĐIẾC] và NGƯỜI NGHE [NGHE ]. Ví dụ: trong khi các cá nhân Điếc và những người tổ chức cộng đồng có thể không đồng ý với các đặc điểm của nhà nước và phương tiện truyền thông về đặc điểm Điếc và NNKH TP HCM (cũng như các NNKH Việt Nam nói chung), thì các phản ứng đối với các nội dung chưa đúng sự thật thường được đưa ra trong bối cảnh duy trì và củng cố các mối quan hệ yêu mến với các thành viên trong gia đình là Người Điếc và không Điếc, giáo viên và các thành viên cộng đồng đáng tin cậy — cho dù những cá nhân đó sử dụng NNKH TP HCM hay NNKH Việt Nam khác hay hoàn toàn không biết sử dụng một NNKH nào.

Các ví dụ tương tự đã được báo cáo cho các làng Bengkala và Desa Kolok ở Bali, Indonesia (Branson, Miller, & Marsaja, 1996; Marsaja, 2008; De Vos, 2012), Adamorobe, Ghana (Kusters, 2013, 2015; Nyst, 2007 ), Ban Khor, Thái Lan (Nonaka, 2004), một làng Yucatec-Maya (Johnson, 1991), và các cộng đồng người Bedouin ở miền nam Israel (Meir, Sandler, Padden, & Aronoff, 2010). Tôi cũng có thể kết luận những ví dụ như vậy trong rất nhiều bằng chứng ở các quốc gia Bắc Đại Tây Dương, nơi mà các cuộc thảo luận về sự phân cực giữa người Điếc và người NGHE chiếm ưu thế nhưng trông khá khác trong các trang tương tác hàng ngày.15

Đối với những người tham gia nghiên cứu là người Điếc đã cộng tác trong nghiên cứu này, phản ứng của họ đối với những thông tin xuyên tạc/không đúng sự thực về người Điếc và NNKH TP.HCM tập trung vào các tham vọng giáo dục và tổ chức xã hội lấy giáo dục làm trung tâm (mặc dù không nhất thiết là những trường hợp không đúng thực tế). Nhận xét của Lưu Ngọc Tủ trong một cuộc phỏng vấn cho báo Tuổi Trẻ16 minh chứng cho chiến lược này (Trung Tân, 2009):

Tôi hi vọng khi kết thúc khóa học này tôi sẽ cùng các bạn ở đây xây dựng được một ngôi trường dành riêng cho người khiếm thính học tập bằng NNKH và sẽ học cao hơn, giúp ích nhiều hơn cho xã hội.

Theo phân tích của tôi về chữ viết của bạn Lưu (Cooper, 2014), việc nhà báo sử dụng từ "khiếm thính" ở đây là một ví dụ về điều mà Pierre Bourdieu gọi là "hình thức áp đặt" (1991, trang 137). Những người tham gia nghiên cứu thường cho biết rằng họ đã chia sẻ thông tin cho các nhà báo về việc ưu tiên sử dụng từ ngữ mà họ muốn được gọi ĐIẾC [DEAF ] trước, trong và sau khi phỏng vấn, nhưng từ người Điếc hiếm khi xuất hiện trên báo in. Mở rộng ra trong báo cáo nghiên cứu Cooper (2014), tôi khẳng định rằng chiến lược của Lưu thể hiện sự tập trung vào mục tiêu, chứ không phải cách gọi tên, của một nhóm xã hội hay định danh.

Kết nối với chiến lược này là việc ưu tiên các nỗ lực vận động nhằm kêu gọi sự quan tâm đến các điều kiện xã hội mà người Điếc ở Việt Nam đang phải đối mặt. Trong các cuộc phỏng vấn và các cuộc họp cộng đồng, những người tham gia nghiên cứu đã liên tục nhấn mạnh đến hàng chục nghìn trẻ em và người lớn Điếc và người khiếm thính (khó khăn nghe) trong các hoàn cảnh giáo dục khó khăn và thu nhập thấp, những người mà họ hy vọng sẽ làm việc nhiều hơn nữa để có thể thay đổi được điều kiện sống của bản thân họ (Cooper 2011, 2014; xem thêm báo cáo của NCCD 2010; UNICEF, 2013).17 Để đề cập đến những trường hợp này, Những người Điếc bình luận là rất ít người có điều kiện sử dụng và học NNKH TP HCM vì KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN [CHO CON ĐI HỌC ]. Khái niệm “không đủ điều kiện” có thể được dịch theo nghĩa đen là "trẻ em không đủ điều kiện đi học/thất học"; tuy nhiên, cách dịch như vậy chưa phù hợp lắm với chữ ĐIỀU KIỆN [lit., phương tiện hoặc điều kiện], về cơ bản chỉ mục tiêu khả năng tài chính của một gia đình để chi trả hoặc chu cho con họ theo học tại các trường học (xem Hình 2.1 (a), (b), and (c)).

Các bài phân tích của những người tham gia nghiên cứu này là người Người Điếc cũng nhấn mạnh rằng xã hội có thể được tái cấu trúc như thế nào để xã hội không chỉ hòa nhập hơn mà còn phản ánh nhiều hơn về người Điếc ở Việt Nam, đặc biệt đối với các loại NNKH Việt Nam mà người Điếc sử dụng ở các vùng miền của đất nước . Theo đó, các ý kiến của họ đề cập từ thực tế địa phương và quốc gia, và họ hướng các hoạt động thay đổi xã hội nhằm nâng cao tính hợp pháp của NNKH TP HCM cũng như các loại NNKH Việt Nam khác. Theo tuyên bố chính thức của họ, quan điểm khẳng định đa ngôn ngữ như thế này đối với các loại NNKH Việt Nam không được chia sẻ bởi hầu hết các cơ quan nhà nước, theo tuyên bố chính thức của họ, từ chỉ đạo của thủ tướng, nhân viên cấp cao của Bộ Giáo dục và Đào tạo (như Giáo sư Lê Văn Tạc, đã đề cập trước đó), đến hiệu trưởng trường dạy người Điếc và thậm chí là các giáo viên. Trên thực tế, đổi mới công nghệ tiếp tục là một động lực quan trọng trong cuộc tranh luận về ngôn ngữ nói so với ký hiệu trong chính sách giáo dục về ngôn ngữ ký hiệu và các chương trình nói chung. Trên khắp thế giới, việc cấy ghép ốc tai điện tử (CI) ngày càng có giá cả phải chăng hơn, nhưng, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, “lợi ích” của nó đã bị các cơ sở y tế uy tín đánh giá sai, tài trợ và đưa ý tưởng hoá (Johnson, 2006). Khi thực hiện phẫu thuật CI — theo đó sẽ có một thiết bị được cấy vào não để kích thích dây thần kinh thính giác với đầu vào từ thiết bị thu bên ngoài — bác sĩ phẫu thuật không thể khôi phục chức năng thính giác mà thay vào đó, để cấy CI, có thể phải phá hủy cơ quan thính giác, có thể là phần còn lại của cơ quan thính giác mà cá thể đó hiện có.

Fig.2.1

Hình 2.1 NNKH TP HCM KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN phần (a), (b), và (c).

Tại Việt Nam việc cấy điện cực ốc tai đang ngày càng phổ biến, một bác sĩ tại thành phố HCM làm một chuyên gia phẫu thuật cấy điện cực ốc tai và truyền thông rất hay đưa tin về những ca cấy ghép ốc tai điện tử thành công18. Tại thời điểm hiện tại, cấy điện cực ốc tai là khoản chi phí đối với đa số người dân Việt Nam. Chỉ có một người tham gia nghiên cứu của tôi đã trải qua phẫu thuật CI. Sau cuộc phẫu thuật, anh ấy không theo dõi để tìm hiểu cách sử dụng thiết bị và nhận thấy điều đó thật phiền toái, anh ấy đã quyết định ngừng sử dụng thiết bị thu bên ngoài. Tuy nhiên, anh ấy vẫn chưa tháo bộ xử lý bên trong vì, anh ấy nói, “Nó sẽ làm mẹ tôi thất vọng. Bà đang nuôi hy vọng rằng một ngày nào đó tôi sẽ sử dụng nó và học nói được”. Khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thị trường với thế giới, các thành viên là người Điếc và các nhà khoa học xã hội cũng sẽ chú ý đến các loại công nghệ mà nhà nước Việt Nam theo đuổi liên quan đến chính sách ngôn ngữ trong các chương trình giáo dục và việc làm, đào tạo, y tế và chất lượng dân số của người Điếc, và các các sáng kiến nhằm vào các đặc điểm và thực hành xã hội và đụng chạm cả vào cơ thể của người Điếc.

Chủ nghĩa tự do phương Tây, Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học và sự dịch chuyển xã hội của cơ thể và ngôn ngữ

Để đặt mối quan hệ giữa ngôn ngữ và sự hình thành trạng thái quan điểm, phần này tập trung vào các cách thức mà các mối quan hệ đó đã được nghiên cứu và lý thuyết trong khoa học xã hội. Đánh giá này về các phương pháp tiếp cận trạng thái và ngôn ngữ bao gồm một số trường hợp “lý tưởng hóa” (Blommaert, 2005, trang 390). Tôi sẽ không thảo luận chi tiết về quan điểm của Blommaert về tầm quan trọng của các trường hợp thực tế so với giả thuyết (và thường được lý tưởng hóa), nhưng các ngôn ngữ ký hiệu đã được mô tả rộng rãi và mạnh mẽ như bất cứ thứ gì ngoại trừ ngôn ngữ thực đến mức cần phải cung cấp một số ngữ cảnh cho cách chúng tôi nghiên cứu. Trong quá trình lần theo cách này, tôi cũng xem xét kỹ lưỡng các khái niệm về một "chúng ta" toàn cầu, được chia sẻ đối với các ngôn ngữ ký hiệu, với một "cộng đồng" người Điếc Việt Nam được chia sẻ (ở phía Nam Việt Nam) và để nghiên cứu các mối quan hệ được thiết lập giữa các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu và các cộng sự/các thành viên/ hoặc đối tác nguyên cứu (xem thêm Friedner và Kusters 2015).

Nhà nước và “ngôn ngữ cơ thể” đều xuất hiện sớm trong lịch sử lý thuyết khoa học xã hội. Như các thiết bị phát ra âm thanh và các lĩnh vực phân tích, mỗi trạng thái và cơ thể đều được hưởng các loại lý thuyết và trạng thái khác nhau. Cả hai đều đã bị “bỏ rơi” và được đưa lên lại ở nhiều điểm khác nhau hoặc được tiếp tục theo các dự án lý thuyết khác. Tuy nhiên, chúng hiếm khi được xem xét trong mối quan hệ với nhau, đặc biệt là ở cấp độ trải nghiệm hàng ngày. Làm thế nào để các trạng thái tương tác với các “cử chỉ cơ thể” trong cuộc sống hàng ngày? Làm thế nào các trạng thái có thể được điều hòa trên các tính năng của “cử chỉ cơ thể” đó? Để khám phá những câu hỏi này, tôi bắt đầu thảo luận hai khái niệm cơ bản về trạng thái trong triết học phương Tây và những cách thức hình thành trạng thái ban đầu chỉ ra những mối quan tâm đối với “cử chỉ cơ thể”. Sau đó, tôi sẽ đưa cho độc giả xem tiếp ba cách tiếp cận trạng thái nổi bật trong khoa học xã hội cuối hiện đại để xem xét tầm quan trọng của các công thức về quyền công dân và chủ quyền này đối với việc thiết lập các tiêu chí của các cơ quan lý tưởng hóa và phi lý tưởng hóa. Điều này cho phép tôi đề xuất một cách tiếp cận thứ tư về cách mà các mối quan tâm liên quan có thể được giải quyết: một phương pháp cận hiện thân về trạng thái. Trong mỗi cách tiếp cận này, tôi cũng thảo luận về những tác động khác nhau của chúng đối với giáo dục và thay đổi xã hội. Tôi không tán thành bất kỳ phương pháp nào so với các phương pháp khác; đúng hơn, tôi đề xuất các cách mà mỗi cách có thể hữu ích cho các khía cạnh của phân tích trạng thái.

Trong truyền thống triết học phương Tây, nhà nước xuất hiện vào thế kỷ XVI như một khái niệm, trong ba trăm năm tiếp theo, Nhà nước lúc này mang bản chất của một sự vật có thật có thể quy chiếu được. Chân lý của nhà nước, như nó được tạo ra trong truyền thống tự do, là sự hình thành có lý trí của nó, qua đó các thể chế của nó được điều hành. Theo một hệ thống luật pháp và sự xét xử hợp lý của chúng, các quốc gia tuyên bố phán quyết công bằng đối với sự không đáng tin cậy, sự yếu đuối và tư lợi của cơ thể — các quan niệm cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các truyền thống tôn giáo Cơ đốc giáo đương thời (P. Brown, 1988/2008). Bực bội vì “cử chỉ cơ thể”, các triết gia đầu tiên của nhà nước đã viết bài chống lại nó theo nhiều cách khác nhau.

Bằng cách phủ nhận sự tham gia có ý nghĩa của cử chỉ cơ thể trong lý luận, các nhà tư tưởng của truyền thống tự do đã không loại bỏ cơ thể khỏi trạng thái. Thay vào đó, họ che giấu cơ quan trong ý tưởng nhà nước và các thể chế, hệ thống phân loại và các hoạt động phối hợp khác nhau của nó. Mọi thứ mà nhà nước đã làm theo định nghĩa không phải là cử chỉ cơ thể. Cơ thể đã trở thành cái nằm ngoài trật tự hợp lý của trạng thái, nhưng lại nằm dưới nó; tách khỏi lý trí, cơ thể là một thứ cần được quản lý và chứa đựng. Với dự án theo chủ nghĩa duy lý, một nghiên cứu phân tích về mối liên hệ giữa nhà nước và ngôn ngữ bắt đầu một cách đúng đắn, vì nền tảng của nhiều hệ thống luật, luật học, tổ chức chính trị và giáo dục thời kỳ cuối hiện đại bắt đầu đưa ra những loại trừ và loại trừ rất cụ thể dựa trên quan niệm về sự khác biệt cử chỉ cơ thể và ý nghĩa được cho là của chúng — đặc biệt là đối với các khả năng ngôn ngữ và trí tuệ giả định và các mối liên hệ được cho là của chúng với màu da, hình dạng cơ thể, cơ quan sinh dục, cấu trúc xương, v.v. (Fausto-Sterling, 1995; Gould, 1981; Terry & Urla, 1995)19

Thomas Hobbes (1588–1679) là một trong những nhà văn hiện đại đầu tiên đưa ra lý thuyết về nhà nước. Trong Leviathan, Hobbes đã ghép một trạng thái tự nhiên tàn bạo (như là chiến tranh) với điều kiện xã hội dựa trên một quốc gia có chủ quyền hợp lý (1651, trang 84). Trong công thức của Hobbes, sự tuân thủ lẫn nhau đối với một khế ước xã hội dưới quyền của “Một người” cai trị có chủ quyền cho phép “Con người” thoát khỏi “tình trạng của Con người . . . vốn là điều kiện cần có của Warre [chiến tranh] ”(sđd, tr. 87). Không giống như Descartes đương thời của mình, Hobbes định vị lý trí trong cơ thể con người, đặt câu hỏi về “những sai lầm thô thiển của một số nhà siêu hình học” (ibid., 3,4; trích trong Stanford Encyclopedia of Philosophy). Tuy nhiên, trạng thái cơ thể của Hobbes vẫn được hiểu là được điều chỉnh bởi luật tự nhiên, do đó nó đòi hỏi sự can thiệp của chủ quyền, người tạo ra luật pháp để ngăn chặn con người khỏi những hành động “hủy hoại cuộc sống của mình” (lex naturalis) (1904 / 1651, tr. 86). Lý do trong trường hợp này là một trạng thái chính trị trong đó các chủ thể tuân theo sự cai trị của chủ quyền để giảm bớt những đam mê của cá thể và tạo điều kiện cho việc phòng thủ chống lại kẻ thù — kẻ thù đầu tiên trong số những kẻ thù đó là chính “ Con người/bản thể”. Đối với Hobbes, nhà nước ở trên các đối tượng của nó, bao gồm họ theo một thỏa thuận bảo vệ mà sau đó họ bị ràng buộc nghĩa vụ. Trong bản thỏa thuận này, tình trạng tự nhiên (chiến tranh) được chuyển giao cho nhà nước.

Jean-Jacques Rousseau (1712–1778) đã viết chống lại trạng thái tự nhiên được đề xuất của Hobbes và tầm nhìn thống trị về nhà nước để phát triển lý thuyết của riêng ông về khế ước xã hội, phát triển một khái niệm về chủ quyền được thể hiện như ý chí chung của công dân. Theo đó, ý chí chung thiết lập nhà nước “vì lợi ích chung” (1968 [1762], trang 69). Hành động chủ quyền, theo Rousseau, “không phải là giao ước giữa cấp trên và cấp dưới, mà là giao ước của cơ thể với từng thành viên của nó” (ibid., Trang 76–77). Với Rousseau, lý trí mang hình thức của một tập thể chính trị xác định luật và ủy quyền việc áp dụng luật thông qua việc lựa chọn các cơ quan chính phủ. Do đó, chủ quyền là hành động của các nhà cầm quyền tự do. Không phải luật pháp thiết lập các đặc quyền, thừa nhận các cá nhân vào các giai cấp, hay lựa chọn một vị vua, mà là các cá nhân có chủ quyền riêng của mỗi người với tư cách là một “chính trị gia cơ bản theo hiệp ước xã hội” (sđd, tr. 80). Ở đây, cơ thể không phải là một cơ thể cụ thể, mà là một thực thể khối lượng mà thực tế của nó đạt được bằng thỏa thuận và “sự chuyển động và ý chí của nó bởi luật pháp” (ibid., p. 80; nhấn mạnh của tôi). Trong trường hợp này, trạng thái tự nhiên được duy trì như một động lực tích cực ở những cá nhân “nếu được thông báo đúng cách và với điều kiện là các thành viên của tổ chức không có bất kỳ thông tin liên lạc nào với nhau, thì số lượng lớn các khác biệt nhỏ sẽ luôn tạo ra ý chí chung và quyết định sẽ tốt ”(sđd, tr. 73). Công dân, trong bối cảnh này, đặc trưng vẫn là nam giới và người Pháp (da trắng).

Do đó, sự phát triển của nhà nước hiện đại đã hình thành cùng với, và thực sự phụ thuộc vào sự phân loại của cơ thể. Việc phân loại như vậy đã nâng cao một số đặc điểm cơ thể và thực hành hơn những người khác, góp phần vào hệ thống phân loại ngày càng phức tạp về các mô tả giới tính, chủng tộc và ngôn ngữ tạo ra các kiểu phân loại chuẩn mực và không bình thường về mặt xã hội, mà nền tảng cho rằng có sự khác biệt nhị phân. Nam giới không có điểm chung nào với phụ nữ, người da màu với người da trắng, hoặc người dùng ngôn ngữ ký hiệu với những người dùng ngôn ngữ nói. Trong bối cảnh khoa học này, nhà nước của Hobbes được ủy quyền, thực sự có nghĩa vụ, giết những kẻ gây ra mối đe dọa cho tập thể, trong khi nhà nước của Rousseau chỉ định nghĩa vụ hành động cho tập thể. Trong cả hai trường hợp, việc hình thành nhà nước tập trung quan tâm đến các hình thức chủ quyền quy phạm. Trong trường hợp đầu tiên, chủ quyền đạt được thông qua việc phủ định một cơ quan được trao cho sự hủy diệt, và trong trường hợp thứ hai, thông qua việc phủ định một cơ quan tiền chính trị, cụ thể hóa (chuẩn tắc). Cả hai khuôn khổ triết học đều cung cấp dấu vết của sự xuất hiện của một hình thức hiện đại tự do của phương Tây gắn kết với nhau các yêu cầu về ngôn ngữ và đối với các cơ quan cho phép hoặc từ chối tư cách thành viên trong các thể chế và bản sắc nhà nước.

Những khuôn khổ như vậy - và đang - nhưng là một trong nhiều biểu hiện của chủ quyền thời kỳ cuối hiện đại trên khắp thế giới. Diễn giải theo quan sát của Achille Mbembe, sự hiện đại tạo ra nhiều khái niệm về chủ quyền kéo theo nhiều khái niệm về sinh học chính trị (2001, trang 13). Theo Mbembe, đó không phải là hiện đại mà là “sự phê bình chính trị cuối hiện đại [rằng] không may đã ưu tiên các lý thuyết quy chuẩn về dân chủ và đã biến khái niệm lý tính trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của cả dự án hiện đại và các quan điểm chủ quyền. ”(Sđd). Mặc dù các chủ quyền và chính trị sinh học ở Hobbes và Rousseau là khác biệt, nhưng chúng tương ứng với một vũ trụ triết học hẹp đã chứng tỏ có ảnh hưởng lớn đến các hình thành chính trị, kinh tế và khoa học trên toàn thế giới. Thảo luận về Hobbes và Rousseau, cũng như tính dễ đọc đương thời của họ, chứng tỏ di sản mạnh mẽ mà các quan niệm tự do của phương Tây về hiện đại và chủ quyền đã có đối với tổ chức chính trị xã hội thế giới gồm các quốc gia, cơ quan (con người) và ngôn ngữ. Do đó, phê bình của Mbembe làm sáng tỏ những điều sau: (1) sự dịch chuyển của cơ thể trong các lĩnh vực chính trị và khoa học; (2) ngôn ngữ như mọi khi và đã là một thực hành dựa trên cơ thể (cho dù ở dạng ký hiệu, nói hay viết); và (3) rằng di sản của các quan niệm tự do của phương Tây về tính hiện đại và chủ quyền đối với tổ chức và quan hệ địa chính trị thế giới vẫn tồn tại ở những hình thức mà chúng ta có thể bỏ qua (tức là nhận thức khoa học thông thường).

Đối với người Điếc và sự nổi lên của truyền thống tự do phương Tây, Lennard Davis (1995) nhắc nhở chúng ta rằng Rousseau là người hưởng lợi từ các luận thuyết thế kỷ XVII về người Điếc, vốn phát triển như vũ bão cùng với sự phát triển của văn hóa in ấn. Các ấn phẩm đề cập đến bản chất của người Điếc, giáo dục của người Điếc và ngôn ngữ ký hiệu và bao gồm các màn trình diễn công khai về khả năng của Người Điếc. Davis trích lời Rousseau, người đã phỏng đoán rằng, “chúng tôi có thể xây dựng luật, chọn các nhà lãnh đạo, phát minh ra nghệ thuật, thiết lập thương mại, và nói một cách ngắn gọn, gần như nhiều thứ như chúng tôi làm với trợ giúp của lời nói ”(sđd, tr. 59; từ Rousseau, 1966, tr. 9). Khi thay thế (sau đó thường được đề cập đến) "sự câm nín" của cơ thể Người Điếc bằng đối diện của nó, Rousseau mặc nhiên chấp nhận các thuật ngữ được đề xuất bởi hệ tư tưởng về một thế giới dựa trên lời nói, loại bỏ bất kỳ sự khác biệt nào trong việc hình thành xã hội xuất hiện trong thực tiễn xã hội học của người Điếc. Tuy nhiên - và tôi tin rằng điều này rất quan trọng đối với bất kỳ cuộc kiểm tra nào về những trường hợp tương tự hiện có trong thời điểm hiện tại - Rousseau đã không gán sự khác biệt hoàn toàn về trí tuệ cho những người Điếc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. Davis (1995) định vị sự phát triển sau này trong sự trỗi dậy của các bài diễn thuyết chủ nghĩa dân tộc ở thế kỷ 19 và sự gia tăng các bài diễn thuyết của chuyên gia về bệnh Điếc, cả hai đều được nêu rõ trong quan điểm rằng các cá thể có khả năng tạo nên một quốc gia khả thi. Đó là vào năm 1880, tại Đại hội Quốc tế lần thứ hai về Giáo dục cho người Điếc, được tổ chức tại Mi Lan, Ý20, mối liên hệ giữa các bài diễn thuyết của chuyên gia về bệnh Điếc như một mối quan tâm y tế và các bài thảo luận chính thức đã đạt được thành tựu của họ là ra đời một lệnh cấm trên thế giới về việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu trong giáo dục.

Trong suốt quá trình của dự án hiện đại, lý trí và ngôn ngữ nói đã kết hợp với nhau để đưa ra các quan niệm về sự trưởng thành xã hội, khả năng đạo đức và năng lực trí tuệ cho những người sử dụng ngôn ngữ nói (và viết). Ngôn ngữ cơ thể càng ít khi lời nói được hiển thị nhiều hơn và được coi là tinh tế hơn. “Thời kỳ hiện đại được đánh dấu bởi xu hướng tạo ra sự khác biệt có thể nhìn thấy được” (Mirzoeff, 1995, trang 71). Mirzoeff tiếp tục:

Trước thế kỷ 19, khẳng định rằng Điếc, theo nghĩa hiện đại, không tồn tại. Chắc chắn là có những người Điếc, nhưng sự đau khổ của họ được coi là một bí ẩn khó chữa bị Chúa gửi đến. Đối với các nhà triết học duy vật thời Khai sáng, người Điếc là một nghiên cứu điển hình thú vị về tầm quan trọng của đầu vào của giác quan đối với sự hình thành trí thông minh và tính hợp lý.

Trong suốt thế kỷ thứ mười tám, điệu bộ cơ thể, cũng như các cách sử dụng ngôn ngữ cơ thể chính là sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, sẽ là cách mà con người ta nghĩ là nó sẽ suy giảm năng lực trí tuệ và đạo đức. Sự phân loại như vậy đã củng cố cho các hình thức cơ bản khác của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học đang hình thành ở châu Âu và Bắc Mỹ vào thời điểm đó, vốn đã được nghiên cứu thêm trong thế kỷ 19 và 20, giống như ngày nay (Baker, 1998, 2010; Farber, 2011; Schafft , 2007; Schafft & Zeidler, 2011; Stern, 2005 [2016]).

Sẽ rất hữu ích khi suy ngẫm về hoàn cảnh chính trị của lý thuyết khoa học xã hội trong thế kỷ XX đã khiến Nettl, vào cuối những năm 1960, tuyên bố chủ quyền là một “con vịt chết” do địa vị của nó là một “khái niệm hạn chế” (1968, trang 560) . Nettl đánh dấu sự kết thúc của mối quan tâm khoa học đến chủ quyền từ thời kỳ ngay trước khi Hitler xâm lược Ba Lan cho đến thời kỳ "Chiến tranh Việt Nam" kết thúc mà ông đang viết. Giải thích kết luận lý thuyết mâu thuẫn này (tức là phủ định sự phù hợp về mặt phân tích và thực tiễn của chủ quyền) như một ví dụ về sự đồng lõa của khoa học xã hội với chủ quyền bạo lực (chiến tranh), có lý khi đặt câu hỏi về việc quay lưng lại với chủ quyền như là một lý do - nghĩa là, một lịch sử sự hình thành đã hy sinh mạng sống của con người cho các trật tự kinh tế-chính trị cai trị đã tạo nên — theo nghĩa đen và theo nghĩa kiến tạo — các cuộc giao tranh địa chính trị thời Chiến tranh Lạnh.

Hoàn cảnh không có người cai trị, không có nhà nước và không có thực thể nào đưa ra các quyết định quản trị, nhưng được cho là các quyết định khách quan, tạo ra một vấn đề cho việc lý thuyết hóa quản trị nhà nước vì nó gây khó khăn cho việc lý thuyết hóa các loại hình địa phương, quốc gia và mối quan hệ toàn cầu. Quan sát này đưa chúng ta trở lại với ngôn ngữ.

Các lý thuyết liên quan đến nhà nước - chẳng hạn như các lý thuyết giải quyết chính sách nhà nước, cấu trúc của các thể chế nhà nước và thực tiễn quản trị - thường được xây dựng trên các lý thuyết về ngôn ngữ21. Hơn nữa, các cuộc kiểm tra về chính sách ngôn ngữ và quy định của chúng chứng minh cách các chính phủ và các nhóm địa phương sử dụng hệ tư tưởng ngôn ngữ làm phương thức phân biệt và kiểm soát dân số (Althusser, 1971; Blommaert, 1999 và 2005; Bourdieu, 1998; Irvine & Gal 2000; Jaffe 1999; Kusters 2014 ; Silverstein 2000).

Theo đó, các chính sách ngôn ngữ và các hoạt động hàng ngày mang lại hình thức cho chủ quyền và quyền công dân bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện và sắp xếp của người sử dụng ngôn ngữ trong không gian và thời gian. Sự sắp xếp như vậy là các nền kinh tế ký hiệu học, “nơi [trong chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa] ngôn ngữ, văn bản và diễn ngôn trở thành các phương thức chính của các mối quan hệ xã hội, đời sống công dân và chính trị, hành vi và hoạt động kinh tế, nơi mà phương tiện sản xuất và phương thức thông tin trở nên phức tạp về mặt phân tích đường lối ”(Luke, 2002, trang 98; xem thêm Luke, 2003).

Hai ví dụ ngắn gọn từ cài đặt ngôn ngữ nói và ngôn ngữ ký hiệu làm sáng tỏ ý nghĩa vật chất của nền kinh tế ký hiệu học. Họ cũng chứng minh lôgic khác biệt thường được áp dụng cho người dùng ngôn ngữ, đặc biệt là những người được cho là khác biệt theo một cách nào đó. Đầu tiên, Irvine và Gal mô tả cách sử dụng ngôn ngữ Xhosa của những người nói tiếng Nam Phi của những người thuộc địa là “tàn bạo”, tập trung vào âm thanh của những tiếng lách cách của ngôn ngữ này (2000, trang 40). Bởi vì sự phân định đặc trưng như vậy phụ thuộc vào các hệ tư tưởng ngôn ngữ, “nhờ đó người ta xây dựng các biểu diễn ý thức hệ về sự khác biệt ngôn ngữ” (sđd, tr. 37), sự đồng thuận sử dụng ngôn ngữ Xhosa xảy ra trong một bối cảnh chính trị, kinh tế và quan trọng là, trong đó các thực dân từ chối những âm thanh xa lạ của Xhosa cùng với các khía cạnh khác của cơ thể người nói Xhosa (Mbembe, 2001). Sự “tàn bạo” của ngôn ngữ Xhosa đến nay được hiểu là một sự can thiệp của thực dân và bị bác bỏ một cách cưỡng bức.

Trường hợp thứ hai, và rõ ràng là tương phản, được đưa ra trong các cuộc tranh luận về phương thức giảng dạy bằng miệng (lờ nói) so với phương thức giảng dạy bằng tay (có ký hiệu) tiếp tục lan rộng các cuộc tranh luận về giáo dục người Điếc của “chuyên gia” và các bài diễn văn phổ biến gần 140 năm sau nghị quyết của Đại hội Mi Lan, Ý. Công việc của Alexander Graham Bell trong chi nhánh Hoa Kỳ của phong trào ưu sinh đã có lập luận nổi tiếng Người Điếc là một “chủng tộc khiếm khuyết” đã giúp thể chế hóa các hành vi phân biệt đối xử trong nghị quyết Mi Lan, Ý, tất cả đều được thực hiện mà không có sự phản đối nào từ các nhà lãnh đạo khoa học xã hội hoặc chính trị ( Kevles, 1998; xem thêm AG Bell 2008).

Trong thời điểm hiện tại, các hoàn cảnh xã hội và chính trị - kinh tế của việc can thiệp ngôn ngữ vào các ngôn ngữ ký hiệu thường bị bỏ qua, thay vào đó là các lập luận nhân đạo dựa trên ý tưởng chủ nghĩa dân gian 2000 tuổi của Aristotle rằng lời nói khó hiểu chứng tỏ sự thiếu vắng trí của trí thông minh (Aristotle, 2004 : 110; xem thêm Bauman, 2004). Chắc chắn, các ngôn ngữ nói của dân tộc thiểu số thường bị bỏ rơi tương tự (Hinton & Hale, 2001; Tháng 5, 2008), nhiều ngôn ngữ trong số đó đã được sử dụng tại các nước thuộc địa cũ ở châu Phi (Bamgbose, 2000, 2011; Mugane, 2006; Spitulnik , 1998). Chính trị hóa ngôn ngữ nói hậu thuộc địa ở các nước châu Phi cũng tương tác và ép buộc các chính sách liên quan đến ngôn ngữ ký hiệu và giáo dục người Điếc (De Clerck, 2011; Lutalo-Kiingi & De Clerck, 2015; Moges, 2015; Nyst, 2007). Các hiệu ứng hậu thuộc địa hóa tương tự đã được ghi nhận đối với các địa điểm khác trên thế giới, chẳng hạn như Campuchia (Moriarty Harrelson, 2015, 2016), Ấn Độ (Friedner, 2014, 2015) và Việt Nam (Cooper, 2014; Cooper & Nguyễn, 2015; Woodward & Nguyễn, 2012), cũng như đối với hầu hết các siêu thuộc địa hiện nay bao gồm các nước phát triển kinh tế hàng đầu thế giới (Branson & Miller, 2007, 2008). Theo đó, việc xóa bỏ ngôn ngữ cơ thể trong lý thuyết khoa học xã hội với tư cách là cơ thể tạo ra ngôn ngữ, với tư cách là cơ thể có giá trị xã hội theo những cách khác nhau đối với các đặc điểm khác nhau, góp phần vào sự tồn tại của ngôn ngữ nói như một chuẩn mực, chống lại điều đó. ngôn ngữ ký hiệu vẫn là một thuật ngữ được đánh dấu.

Khoa học xã hội Hướng tới và rời bỏ các Quốc gia, Ngôn ngữ và ngôn ngữ cơ thể

Vào đầu đến giữa thế kỷ 20, các mô tả về “những người khác” nhân học, các cuộc thảo luận về cấu trúc và cấu trúc-chức năng của tổ chức cơ thể con người, ngôn ngữ, lao động, trao đổi và nghi lễ có xu hướng nhấn mạnh mô tả về các cơ thể kỳ lạ và các thực hành cơ thể chưa được đánh giá cao về chúng theo lịch sử, chính trị và các tiêu chí phân tích khác (ví dụ: xây dựng đế chế). Khi lập luận cho việc giải thích các mối quan hệ xã hội và chính trị của các xã hội không phải phương Tây theo nghĩa riêng của họ, A. R. Radcliffe-Brown (1955 [1940], trang xxiii) đã khẳng định khái niệm về nhà nước:

Trong các bài viết về thể chế chính trị, có rất nhiều cuộc thảo luận về bản chất và nguồn gốc của nhà nước, thường được thể hiện như là một thực thể trên và trên những cá nhân con người tạo nên một xã hội, có một trong những thuộc tính của nó là cái gì đó được gọi là "chủ quyền, ”và đôi khi được nói đến là có ý chí [luật được định nghĩa là ý chí của nhà nước], hoặc là ban hành mệnh lệnh. Trạng thái theo nghĩa này không tồn tại trong thế giới hiện tượng; nó là một hư cấu của các triết gia. Những gì tồn tại là một tổ chức, tức là [,] một tập hợp các cá nhân con người được kết nối bằng một hệ thống quan hệ phức tạp.22

Tuy nhiên, Radcliffe-Brown dựa trên định nghĩa của Max Weber về nhà nước là một “cộng đồng con người (chiến thắng) tuyên bố độc quyền sử dụng hợp pháp vũ lực trong một lãnh thổ nhất định” (1991 [1918], trang 78 ). Bỏ qua đề cập đến nhà nước, Radcliffe-Brown chuyển sự chú ý lý thuyết sang xã hội: "Tổ chức chính trị của một xã hội là khía cạnh của tổ chức tổng thể liên quan đến việc kiểm soát và điều tiết việc sử dụng vũ lực" (1955 [1940], trang xxiii). Tiêu điểm này phản ánh lý thuyết của Mác, ngoại trừ việc Mác mặc nhiên công nhận một nhà nước đàn áp phục vụ lợi ích của giai cấp kinh tế tư bản thống trị. Thay vì tiếp tục phát triển một lý thuyết về nhà nước, nhân học đã thay thế trạng thái bằng một thứ gì đó có lẽ là vật chất có phương pháp luận hơn (ví dụ: thể chế, chính phủ).

Sự quay lưng của nhân loại học với nhà nước — trong cùng một giai đoạn lịch sử mà nhiều dân tộc trước đây bị đô hộ đang đòi lại quyền kiểm soát của nhà nước — do đó đã giúp mở ra sự tập trung kỷ luật đối với các dân tộc không có nhà nước, kéo dài trong vài thập kỷ (Trouillot, 2001). Do đó, sự tập trung kỷ luật vào những người không quốc tịch đã tạo điều kiện cho ít nhất hai loại chia rẽ: (1) sự phân chia văn minh giữa các nhà nghiên cứu gắn với các quốc gia công nghiệp hóa và nhóm nghiên cứu tiền công nghiệp; và (2) một phân nhánh phân tích của chính trị (nhà nước) và văn hóa (xã hội). Đối với lý thuyết khoa học xã hội sau Thế chiến II về nhà nước, tác dụng của điều này là “không phải là các hiện tượng như chủ nghĩa độc tài và chủ nghĩa toàn trị bị bỏ qua, chỉ là các giải thích lý thuyết được ưa thích đã được ngụy tạo về mặt kinh tế lạc hậu hoặc sự kiên trì đáng tiếc của những người không phải phương Tây các giá trị 'truyền thống' (Skocpol, 1985, trang 6). Những giải thích này được mở rộng một cách nổi bật cho các xã hội khác nhau trên khắp thế giới, hạn chế hiểu biết của khoa học xã hội về sự hình thành của các loại hệ thống nhà nước này.

Sự phân chia giữa các quốc gia được cho là không ổn định nhưng các xã hội có thể nghiên cứu đã làm thay đổi xã hội trong khi phi chính trị hóa các hoạt động gắn liền với văn hóa. Dù vô tình hay không, việc miêu tả các xã hội không quốc tịch bên ngoài các trung tâm đô thị của Bắc Đại Tây Dương đã làm giảm các xã hội như vậy, nhưng một lần nữa, về cơ thể của họ, giống như việc E. Tylor gán mác nổi tiếng cho những người sống bên ngoài các siêu cường đô thị là “những kẻ man rợ” (1892). Mô tả về các dân tộc không quốc tịch đã mở rộng danh mục các hình thái cơ thể của nhân học, vốn trước đó đã góp phần vào sự bùng nổ của hệ thống phân loại chủng tộc và chế độ ưu sinh trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong bối cảnh này, các lý thuyết phân loại khác nhau về sự phát triển văn hóa của con người đã trở nên phức tạp, được các nhà nhân học áp dụng để giải thích những khác biệt trong bối cảnh quốc gia. Lý thuyết “văn hóa nghèo đói” của Oscar Lewis (1959) là một ví dụ đặc biệt nguy hiểm; Các nghiên cứu theo định hướng tư bản chủ nghĩa của Max Weber’s (1991 [1918]) về Ấn Độ giáo và Nho giáo là những ví dụ khác (1958, 964). Cách xử lý nhân học về quá trình tiến hóa xã hội của loài người (ví dụ, Lewis H. Morgan, Julian Steward) và lý thuyết của Mác đã giao thoa và củng cố lẫn nhau về các giai đoạn tiến hóa của nền văn minh; tuy nhiên, lý thuyết của Mác có sự khác biệt đáng kể so với các khuôn khổ tiến hóa xã hội, đặc biệt là liên quan đến tính tất yếu kinh tế của xã hội chia thành “người giàu bị bóc lột hay người nghèo bị bóc lột”, cũng như quan điểm về nhà nước là công cụ của sự bóc lột đó (Engels, 1972 [1884] , tr. 228). Theo một so sánh thô thiển nhất, điểm trùng lặp giữa Max Weber và chủ nghĩa Mác cổ điển là sự hình thành sự thống trị từ “bên trên”.

Các sự kiện kéo dài từ những năm 1960 đến những năm 1980 đã thúc đẩy khoa học xã hội đổi mới và sự quan tâm của mọi người trong nhà nước. Những sự kiện này bao gồm sự xuất hiện của các quốc gia hậu thuộc địa tránh xa mô hình tự do-dân chủ; sự phát triển của các xã hội đa dạng; phong trào dân quyền có xuất phát từ Hoa Kỳ và sau đó là Chiến tranh Việt Nam và các phong trào nữ quyền làn sóng thứ hai; và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng và sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Các lý thuyết tân Mác xít và hậu cấu trúc về nhà nước đã xuất hiện vào thời điểm này để thách thức quan niệm về nhà nước vừa là một thể thống nhất cụ thể, vừa đơn giản là một đối tượng của sự đàn áp nhà nước (Althusser, 1971; Foucault, 1979). Sự gia nhập của lý thuyết hậu hiện đại đã bùng nổ trong hoạt động tuy nhiên “làm giảm các hiện tượng phức tạp của nhà nước và quyền lực thành‘ diễn ngôn ’và‘ sự đại diện’, quên rằng diễn ngôn và sự đại diện có tính trọng yếu” (Mbembe, 2001, trang 5).

Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản tân tự do đang lan rộng đương thời, tính linh hoạt của các diễn ngôn và sự đại diện có nguy cơ làm thay thế nhà nước hơn nữa, cùng với các hiện tượng học về sự bóc lột và gạt ra ngoài lề của những người thực tế ở những nơi thực tế (Mittelman, 1996). Do đó, nếu một trật tự toàn cầu hóa đang thực sự được tiến hành, “nếu sự biến đổi này thực sự mang tính thời đại. . . nó phải tham gia vào cấu trúc thể chế phức tạp nhất mà chúng ta từng tạo ra: Chủ quyền nhà nước”(Sassen, 2006, trang 1).

Tăng cường lý thuyết về Nhà nước: Tầm quan trọng của Mô tả Dân tộc học

Quan sát các xu hướng không được lý thuyết giải thích trong hai thập kỷ qua, các nhà khoa học xã hội đã quay trở lại mối quan tâm của nhà nước để giải quyết sự biến đổi ở các quốc gia theo chủ nghĩa hậu xã hội (Hann, 2003; Makovicky, 2014; Verdery, 1998); sự hình thành nhà nước mới (Vũ, 2010); các công cụ mới và địa điểm xây dựng nhà nước (Chalfin, 2006); cấu hình lại các mối quan hệ nhà nước và xã hội (Bernal, 2006); và sự hình thành nhà nước liên quan đến các hình thức chính sách ngôn ngữ, kỷ luật và quy định (Branson & Miller, 2008; May, 2008; Scott, 1990; Tollefson, 1991). Các nhà nhân chủng học cũng đang giải quyết các tác động của toàn cầu hóa đối với các quốc gia và các khía cạnh toàn cầu hóa của quản trị nhà nước (Sharma & Gupta, 2006) và đã đặt câu hỏi về mức độ thương mại, hiệp ước và các thực tiễn khác được dán nhãn là “toàn cầu” từng diễn ra trên quy mô toàn cầu, do thương mại hóa có xu hướng xảy ra hạn chế giữa các đối tác, không bao gồm các thỏa thuận cụ thể giữa nhà nước với nhà nước (Trouillot, 2001). Quan sát sự trỗi dậy gần đây của sự kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động của doanh nghiệp trong các nền kinh tế quốc nội ở châu Âu và châu Á, khoa học chính trị cũng đang chuyển sang xem xét lại phân tích nhà nước (Bremmer, 2010). Những phát triển này mặc dù vậy, các tài liệu có liên quan về các hình thức tổ chức và quản trị nhà nước vẫn chưa bao hàm được tiềm năng lý thuyết, chính trị và thực tiễn của các phân tích dân tộc học về ngôn ngữ và cơ thể khi chúng có thể hoặc đủ để đặt ra vấn đề về cách thức quyền lực được sản sinh và định dạng lại. thông qua ngôn ngữ và các cách sử dụng khác của ngôn ngữ cơ thể.

4 phương pháp cho chính phủ/Nhà nước: Tầm quan trọng của ngôn ngữ và cơ thể tới phân tích chính trị xã hội

Nhà nước đóng vai tác nhân

Phương pháp tiếp cận chính phủ với tư cách là tác nhân được xây dựng dựa trên các lý thuyết khái niệm Chính phủ là lực lượng thống trị trong đời sống chính trị xã hội. Vào giữa những năm 1980, sự hình thành của việc đưa chính phủ trở lại trong lý thuyết khoa học chính trị được hồi sinh về nhà nước (BSBI; Evans, Rueschemeyer, & Skocpol, 1985). Nghiên cứu của họ tập trung vào các vấn đề như quyền tự chủ và năng lực của các quốc gia trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra (sđd, trang 347–366), hiệu quả của các nhà nước “yếu” (phi tập trung và dân chủ) và “mạnh” (tập trung và độc tài) (Katznelson, 1985, trang 257–284), và cưỡng chế nhà nước và gây chiến (Tilly, 1985, trang 169–191). Một đặc điểm nổi bật của lý thuyết BSBI là việc cân nhắc lợi ích và quyết định hợp lý so với phi lý trí, chẳng hạn như cuộc thảo luận của Rueschemeyer và Evans về sự can thiệp vào các chuyển đổi kinh tế và nhà nước (1985, trang 44–77). Dấu hiệu thứ hai của lý thuyết BSBI là mối quan tâm đến sự thống trị.

Việc xem xét nhà nước với tư cách là một tác nhân hợp lý không bao gồm con người thực tế mà tập trung vào các thể chế nhà nước và “các cấu trúc tổ chức và hành động ảnh hưởng đến ý nghĩa và phương pháp chính trị đối với tất cả các nhóm và tầng lớp trong xã hội” (Skocpol 1985, trang 28) . Đối với sự thống trị, các nhà nghiên cứu BSBI cũng có xu hướng tập trung vào phúc lợi nhà nước như một hệ quả tích cực của sự thống trị (Evans, Rueschemeyer, & Skocpol, 1985; Tilly, 1985). Theo đó, mô hình trạng thái này với tư cách là lý thuyết tác nhân xem trạng thái như đã được hình thành; do đó, các nhà lý thuyết của BSBI đã giải quyết các vấn đề mà họ liên quan đến việc cân bằng lợi ích mâu thuẫn giữa các công dân quản lý “bên trong” và quản lý các lực lượng được coi là nằm ở “bên ngoài” (Rueschemeyer & Evans, 1985, trang 48).

Sự vắng mặt trong lý thuyết BSBI là sự kiểm tra về sự bảo vệ, hay điều mà nhà lý luận chính trị nữ quyền Wendy Brown (1995, trang 15) gọi là “kỹ thuật thống trị” theo giới tính, là một trong những cách mà cấu trúc gia trưởng và nam tính đạt được quyền bá chủ đối với phụ nữ nói riêng (trong hệ thống tình dục song tính). Những luận điệu chính trị phớt lờ sự đa dạng về giới tính và tình dục và sự áp bức trong các điều kiện thống trị đã tạo nên các cấu trúc quy chuẩn của sự thống trị — điều này có thể giải thích tại sao các nhà lý thuyết của BSBI cũng bỏ qua những lo ngại về ngôn ngữ.23 Mặc dù không đề cập đến lý thuyết BSBI, nhưng lời phê bình của Brown về truyền thống chính trị tự do như một hình thức thống trị theo chủ nghĩa nam tính, định vị “Nam giới trong nhà nước”, gợi ý những cách mà các mệnh lệnh chính trị cố định sự thống trị thông qua các hình thức hiện thân (1995, trang 166 –196; xem thêm quan niệm của Bourdieu về nhà nước nam quyền, 1998, trang 371–389).

Có liên quan ở đây là sự trong trắng và tính trung tâm của truyền thống tự do, theo đó “sự thừa nhận về mặt lý thuyết và thực tế về cơ thể và thân xác của 'người lạ' cũng như là thân xác và cơ thể như tôi, ý tưởng về bản chất chung của con người, một nhân loại được chia sẻ với những người khác, đã đặt ra từ lâu, và vẫn đang đặt ra, một vấn đề đối với ý thức phương Tây ”(Mbembe, 2001, trang 2; nhấn mạnh trong bản gốc). Cũng có liên quan ở đây là cái có thể được gọi là sự lắng nghe của truyền thống tự do, bao gồm một chế độ công dân yêu cầu công dân "nghe nói" lợi ích chính trị của họ, để đáp ứng lời kêu gọi của nghĩa vụ đối với nhà nước, và có lẽ thống nhất nhất trong các hình tượng chủ nghĩa dân tộc, để nói một ngôn ngữ chung theo nghĩa đen (Anderson, 1983). Sự đa dạng của các nhóm dân cư được quản lý bởi các quốc gia cuối hiện đại đặt ra câu hỏi làm thế nào để đạt được sự đồng ý đối với các trật tự chính trị như vậy, đặc biệt là khi “ý nghĩa của nhà nước và phương pháp chính trị” được phân bổ không đồng đều và được dân số cho phép không đồng đều (Skocpol 1985, tr. 28).

Mô hình nhà nước của Marx-Althusser với tư cách là tác nhân giải quyết vấn đề làm thế nào các nhà nước tự tái tạo theo thời gian bằng cách đưa ra sự phỏng đoán ý thức hệ. Mở rộng quan niệm của Marx về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Althusser đã đưa ra lý thuyết về sự hình thành xã hội theo đó “phải tái sản xuất các điều kiện của sản xuất đồng thời với sản xuất” (1971, trang 128). Ngoài các kỹ năng và kiến thức nhất định, chủ nghĩa tư bản do đó phải tái tạo “sự tuân theo các quy tắc của trật tự đã thiết lập” (tức là, “hệ tư tưởng thống trị” (ibid., Trang 132). Sự phỏng đoán mô tả một tình huống trong đó bộ máy nhà nước theo hệ tư tưởng —Chẳng hạn như các tổ chức tôn giáo, gia đình, và, đặc biệt là theo quan điểm của Althusser, hệ thống giáo dục — khắc sâu các cá nhân như đối tượng vào các danh mục cụ thể và sau đó là các câu hỏi liên quan đến thẩm vấn hoặc “chào mừng” họ như vậy. Sự phỏng đoán thêm một yếu tố đa dạng và khác biệt vào lĩnh vực tư tưởng như vậy, theo kinh nghiệm khắc sâu cụ thể của một người, người đó có thể trả lời “có” với mưa đá (như một chủ đề “tốt”) hoặc “không” cho trận mưa đá (như một chủ đề “xấu”). Hoặc, theo Pechéux (1982) và Muñoz (1999), một người có thể làm một điều gì đó hoàn toàn khác, để “phân biệt” với những ràng buộc của các thể chế tập trung vốn không nắm được sự đa dạng đầy đủ của con người về kinh nghiệm sống (Silverstein, 1998, trang 404).

Trong lý thuyết của nhà nước cho rằng tập trung vào giáo dục như một tập hợp các tổ chức có trách nhiệm giảng dạy bằng một ngôn ngữ “thuần túy”, các lý thuyết về ngôn ngữ có thể tự tạo điều kiện cho các mối liên hệ hiệp đồng giữa ngôn ngữ và quyền lực thúc đẩy các hình thức thống trị tập trung trong chính phủ (Althusser, 1971; Bourdieu, 1998, tr. 123). Điều này sẽ bao gồm các nhiệm vụ giáo dục trừng phạt việc học và sử dụng đa ngôn ngữ, bao gồm cả các biện pháp trừng phạt đối với việc sử dụng các ngôn ngữ ký hiệu.

Nhà nước đóng vai hiệu ứng

Nhà nước đóng vai hiệu ứng tương tự như nhà nước đóng vai tác nhân bên trên, hay như Foucault đã lập luận nổi tiếng trong bài phê bình lý thuyết chính trị của mình, đã tìm cách “chặt đầu nhà vua” (1990, trang 88–89). Một số người đã đóng góp vào việc lý thuyết hóa trạng thái như hiện nay — Arextaga (2003), Hall (1985), Mitchell (1991), và Trouillot (2001), chỉ là một số ít. Với tầm ảnh hưởng rộng lớn của Foucault đối với khoa học xã hội, trong phần này, tôi chỉ tập trung vào các ý tưởng của ông.

Trái ngược với lý thuyết chính trị cùng thời, Foucault không định vị quyền lực trong nhà nước mà nằm trong những người được cấu thành như một số loại chủ thể nhất định của năng lượng sinh học. Năng lượng sinh học là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả sự gia tăng hiện đại trong các cơ chế thống kê và phân loại, tác động của cơ chế này là tạo ra các quần thể thông qua diễn thuyết của chuyên gia (ví dụ: tình dục khác giới). Đối tượng sau đó, trước hết và quan trọng nhất, là các loại cá thể (người lính, công nhân nhà máy, giáo viên), mà Foucault lý thuyết là "ngoan ngoãn" - nghĩa là ai đó "có thể bị áp đặt, sử dụng, biến đổi và cải thiện" theo công nghệ của tri thức và quyền lực (1979, trang 136). Những công nghệ này bao hàm nhưng không giới hạn ở các cơ sở giáo dục chính thức vì chúng chứa đựng một loạt các “kỹ thuật mà con người sử dụng để hiểu bản thân mình” (Foucault, 1988, trang 18).

Trong số những kỹ thuật này là “công nghệ của bản thân”, Foucault liên kết chặt chẽ với lý thuyết về chính quyền của ông. Khi “cắt đầu nhà vua”, Foucault đã phát triển lý thuyết quyền lực vượt ra ngoài các thể chế của nhà nước và các hình thức phân tích chính trị truyền thống (luật, chủ quyền, quyền) để mô tả nguồn gốc của nhà nước hiện đại ở châu Âu. Với chính quyền hóa, Foucault lập luận cho một khái niệm ngẫu nhiên trong lịch sử về sự hình thành nhà nước và các chế độ cai trị được phân cấp. Theo Foucault, trung tâm của sự hình thành nhà nước liên quan đến nghệ thuật chính quyền. Vấn đề trọng tâm của nghệ thuật chính quyền “là làm thế nào để giới thiệu nền kinh tế — nghĩa là nói lên cách thức quản lý đúng đắn giữa các cá nhân, hàng hóa và của cải trong gia đình (điều mà một người cha tốt phải làm trong mối quan hệ với vợ con, và những người hầu). . . vào sự quản lý của nhà nước ”(1991, tr. 92).24 Là “chiến thuật” của chính phủ, chính quyền xác định (1) dân số phân biệt, (2) các hình thức và bộ máy cụ thể của chính phủ, và (3) sự xuất hiện dần dần của nhà nước hành chính (Foucault, 1991, trang 102–103). Do đó, chính phủ là tập hợp các thực thể tạo ra một vấn đề, sau đó “đưa ra các chiến lược nhất định để quản lý hoặc giải quyết vấn đề” (Lemke, 2007, trang 44).

Tuy nhiên, chính quyền không giải thích được nền kinh tế, luật pháp, hệ thống giáo dục và các bộ máy khác được điều phối như thế nào. Ví dụ, làm thế nào mà nếu tôi không ra hầu tòa, cảnh sát đến bắt tôi? Stuart Hall lập luận: “Đây chính xác là một bước,“ điều mà Foucault từ chối ”- điều mà Hall gọi là“ sự khớp nối ”- mà Hall tìm thấy trong sự kết hợp mâu thuẫn hữu ích của Althusser giữa các bộ máy tư tưởng và đàn áp nhà nước (1985, trang 93). Như một số học giả đã nhận xét, chính quyền hoạt động dựa trên một cơ quan tuân thủ sẽ tạo ra một vấn đề cho cơ quan lý luận bằng cách giới hạn phạm vi lý thuyết của nó (Ahearn, 2001; Bartky, 1995). Cũng như trạng thái nhà nước như là tác nhân, về mặt lý thuyết, lý thuyết về tầm quan trọng của các trải nghiệm cơ thể cụ thể - khác nhau về cách thức mà chúng gặp gỡ, tương tác và tạo ra các dạng quyền lực - biến mất trong một sự rửa trôi theo chủ nghĩa phổ quát của sự vô biệt (Hayles, 1999). Trong một vũ trụ lý thuyết như vậy, các hoàn cảnh tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các loại chủ đề chỉ ra các thuộc tính vật lý cụ thể (nhưng lại bỏ qua một cách nghịch lý tính khả quan của các thuộc tính đó) thường bị mất lịch sử — chẳng hạn như khi các nhà khoa học xã hội (và những người khác) thảo luận về bệnh Điếc trong khi bỏ qua ngôn ngữ ký hiệu. Orisanmi Burton's (2015) Black Lives Matter: Phê bình văn học là một trong những lực lượng hướng dẫn của chúng tôi ở đây trong việc tranh luận nghĩa vụ đạo đức của nhân loại học để giải quyết những cách thức mà "cơ thể là vật chất", chống lại xu hướng tuyên bố ý tưởng về chủng tộc được xây dựng trên phương diện xã hội (trong thế mạnh của Burton là một ví dụ), nhưng làm sáng tỏ những tác động sinh học rất thực tế mà các cơ thể (người) chủng tộc phải chịu đựng.

Bằng cách nhấn mạnh sự hấp thụ của nhà nước trong các diễn ngôn, Foucault tuy nhiên đã thách thức một cách thuyết phục hai khái niệm rắc rối trong lý thuyết chính trị của BSBI: khái niệm về một nhà nước cụ thể và đơn nhất, và khái niệm về một nhà nước tách biệt với xã hội. Đồng thời, bằng cách bỏ qua các quyền lực được tập hợp trong các thể chế — thẩm quyền khác nhau của luật gia, cảnh sát và giáo viên — nhà nước dường như không có ở đâu và không bao gồm giới tính cụ thể, dân tộc, chủng tộc, tình dục hoặc các đặc điểm khác của con người. Điều này là do căng thẳng trong lý thuyết của Foucault, mà Agamben giải quyết bằng cách hỏi "Đâu là điểm mà sự phục vụ tự nguyện của các cá nhân tiếp xúc với sức mạnh khách quan?" (1998, trang 6) và “quỹ tích” của quyền lực (2005, trang 24) là gì? Đối với những câu hỏi này, tôi bổ sung thêm một câu hỏi khác: Quyền lực được biến đổi như thế nào bởi những người cụ thể, ở những địa điểm cụ thể, với cơ thể và ngôn ngữ mà họ sở hữu (hoặc được cho là sở hữu)?

Nhà nước đóng vai trò tưởng tượng

Thay vì nói về trạng thái như một thực thể luôn/đã bao gồm một số tính năng, chức năng và hình thức quản trị nhất định, chúng ta hãy tiếp cận mỗi trạng thái thực tế như một cấu hình cụ thể về mặt lịch sử của một loạt các trạng thái ngôn ngữ, một số thực tế, một số biểu tượng và trình diễn, đã được phổ biến, dịch ra, diễn giải ra và kết hợp theo nhiều cách và trình tự khác nhau trên toàn cầu (Hansen & Stepputat, 2006, trang. 6–7)

Nhà nước đóng vai trò như trí tưởng tượng là một cách tiếp cận tập trung vào lý thuyết các phương pháp thực hành hàng ngày để giải quyết các vấn đề của nhà nước, ngay cả khi tác nhân của nhà nước không có mặt hoặc hành động của một cá nhân có thể không dễ dàng được coi là có liên quan đến nhà nước. Phải thừa nhận rằng bên ngoài các địa điểm chính thức, nhà nước không dễ định vị; Do đó, những ảnh hưởng của nhà nước trong cuộc sống hàng ngày có thể khó xác định. Chính sự căng thẳng này của nhà nước ở khắp mọi nơi và chưa đến nơi nào, nơi vắng bóng của quyền lực, là cách tiếp cận thứ ba đối với nhà nước. Philip Abrams’s (1988) “Ghi chú về khó khăn của việc nghiên cứu nhà nước” đã khảo sát những trở ngại chính trị - xã hội học đối với việc nghiên cứu nhà nước. Trong bài báo đó, Abrams lập luận rằng chính cách mà các nhà lý thuyết đã hình thành khái niệm về nhà nước đã can thiệp vào việc nghiên cứu nhà nước và quyền lực nhà nước - cụ thể là thông qua những nỗ lực để xác định “thực tại tiềm ẩn” của nhà nước (sđd, tr. 61). Thay vì cố gắng khẳng định lại sự tồn tại của nó hoặc từ bỏ nghiên cứu của nó, Abrams đề xuất rằng “chúng ta nên công nhận sự đồng nhất của ý tưởng về nhà nước như một sức mạnh ý thức hệ và coi đó như một đối tượng phân tích hấp dẫn” (sđd., Trang 79 ).

Ông ấy tiếp tục:

Nhà nước không phải là thực tế đứng đằng sau chiếc mặt nạ của chính trị. Chính nó là chiếc mặt nạ, ngăn cản chúng ta nhìn thấy thực tiễn chính trị như nó vốn có. . . . Có một hệ thống nhà nước. . .một mối liên hệ rõ ràng của thực tiễn và cấu trúc thể chế tập trung vào chính phủ. . . . Cũng có một ý tưởng nhà nước, được dự kiến, được đưa ra và được tin tưởng khác nhau trong các xã hội khác nhau vào những thời điểm khác nhau. (sđd, tr. 82)

Những tác giả của lý thuyết Nhà nước đóng vai trò tưởng tượng, một cuốn sách được biên soạn bởi Thomas Blom Hansen và Finn Stepputat (2001), mở rộng về phân tích của Abrams (cũng có thể xem thêm Mitchell, 2002, and Trouillot 2001).

Từ quan điểm của các nhà nước đóng vai trò tưởng tượng, sự hình thành nhà nước đang diễn ra ít liên quan đến định nghĩa nhà nước là gì và nhiều hơn là cách các chủ thể công dân hình thành khái niệm về nó. Ý tưởng về trạng thái xuất hiện trong các ngôn ngữ, theo nghĩa của Bakhtin, là đối thoại, được chia sẻ, nhưng cũng cụ thể cho các vị trí sử dụng của chúng25. Quan điểm của Bakhtin đã có ảnh hưởng cực kỳ lớn trong việc kiểm tra nhân học xã hội học và ngôn ngữ học về quyền lực xã hội và có ý nghĩa quan trọng trong việc lý thuyết hóa chủ quyền và quyền công dân. Ví dụ, cuộc thảo luận của Seider về Guatemala thời hậu chiến tránh quan niệm cổ điển về quyền công dân như một tập hợp các quyền cố định, mà trong cuộc sống hàng ngày thường không được hiện thực hóa. Thay vào đó, Seider xem xét cách quyền công dân xuất hiện trong một quá trình năng động giữa các nhóm xã hội khác nhau (trong Hansen & Stepputat, 2001, trang 204).

Trong một bài luận lý thuyết thuần túy hơn, Dean (2001; cũng trong Hansen và Stepputat, 2001) xem xét các ý nghĩa thay đổi và mối quan hệ giữa quyền công dân và chủ quyền trong chủ nghĩa tự do sinh học chính trị. Dean đưa ra một mô tả về quyền công dân và chủ quyền là hoạt động hiệp đồng (ibid., Trang 62–63).

Nghệ thuật quản lý tự do trong bối cảnh tự do. . . luôn chứa đựng sự phân chia giữa những người có khả năng xứng đáng nhận được trách nhiệm và quyền tự do của công dân trưởng thành và những người không xứng đáng. Đối với những người không như vậy, điều này thường có nghĩa là cung cấp chuyên quyền cho các nhu cầu đặc biệt của họ với mục đích khiến họ tự chủ bằng cách nâng cao năng lực trách nhiệm và chính phủ tự quản.

Dean gợi ý, nhưng không nêu tên, tầm quan trọng của cơ thể được đánh dấu — “dân tộc thiểu số”, chủng tộc, giới tính, tính dục, ngôn ngữ hoặc cơ thể có nghi ngờ về hình dáng — đối với các dự án lý thuyết nhằm giải mã các quá trình mà các quốc gia thiết lập và duy trì các chế độ chính trị xã hội. Việc kiểm tra như vậy rất hữu ích trong việc giải mã các cơ chế hòa nhập (và tấm gương phản chiếu của nó - tính đa dạng) ngày càng xuất hiện trong chính sách xã hội và chương trình chuyên biệt, mà bất chấp mục đích tốt là gì, vẫn để lại các cấu trúc bất bình đẳng vững chắc (Ahmed, 2012; Urciuoli, 2010). Liên quan ở đây là các trường học chuyên biệt dành cho người Điếc và các cơ sở giáo dục hòa nhập trên khắp thế giới từ chối học sinh tiếp cận với các ngôn ngữ ký hiệu mẹ đẻ của họ.

Nằm trong lý thuyết hậu thuộc địa, cách tiếp cận của Hansen và Stepputat tập trung vào việc kiểm tra dân tộc học của các địa điểm cụ thể trong đó xuất hiện " trạng thái của ngôn ngữ ". Họ lập luận rằng “một nhà nước chỉ tồn tại khi những‘ ngôn ngữ ’quản trị và quyền lực này kết hợp và cùng tồn tại theo cách này hay cách khác” (2001, trang 8). Tuy nhiên, diễn giải

Hansen và Stepputat, để lý thuyết hóa các hình thức quản trị thời hậu thuộc địa liên tục phải đối mặt với các quan niệm quản trị của phương Tây và các mối quan tâm trung tâm của họ, làm nổi bật sự cần thiết phải hiểu bản chất lịch sử cụ thể của các hình thức nhà nước hậu thuộc địa khác nhau. Bằng cách tham gia vào các trạng thái của ngôn ngữ, Hansen và Stepputat và các đồng tác giả sử dụng quan điểm của Foucauldian và rất cổ điển để theo đuổi “sự mơ hồ của trạng thái. . . vừa ảo tưởng vừa như một tập hợp các thể chế; cả những ý tưởng xa vời và vô vị cũng như các thể chế bản địa hóa và nhân cách hóa; vừa bạo lực, vừa phá hoại cũng như nhân từ và hữu ích ”(sđd, tr. 5). Điều này bao gồm việc kiểm tra các mối liên hệ của các nhà hùng biện chính thức kiểu lý tưởng hóa, cũng như các cách thức mà các hành động của nhà nước được các cộng đồng cụ thể phê chuẩn, phản đối hoặc cả hai.

Quan điểm cá nhân của tôi thì Nhà nước kiểu tưởng tượng vì nó thừa nhận rằng các trật tự chính trị, giống như mô tả của Hall về Althusser, một “cấu trúc” nhất định về cả thể chế và hệ tư tưởng. Đặt câu hỏi về những hạn chế của lý thuyết để giải thích một cách đầy đủ các trật tự chính trị hậu thuộc địa khác nhau cũng là một khía cạnh cực kỳ quan trọng của mô hình đó - có nghĩa là, việc đặt câu hỏi này thách thức sự khăng khăng của lý thuyết đối với các khái niệm dân chủ tự do chuẩn mực về “tự do” và “quyền”. Bài đánh giá của Fiona Wilson (2001) về sự tương tác giữa nhà nước Peru và một tỉnh nông thôn của Andean liên quan đến trường học, giáo viên và học sinh có liên quan đặc biệt đến quá trình đánh giá về giáo dục của tôi ở Việt Nam, vì vậy, trong các đoạn sau, tôi thảo luận chi tiết về trường hợp của Wilson.

Vào cuối những năm 1990, Wilson đã ghi lại câu chuyện của một giáo viên, người mô tả vai trò của mình trong việc sắp xếp sự tham gia của học sinh trong lễ kỷ niệm hàng năm về nguồn gốc thần thoại quốc gia, cuộc diễu hành Fiestas Patrias. Dưới dạng một câu chuyện kể trước đó, giáo viên đã xây dựng cuộc diễu hành như một hình thức của chủ nghĩa địa phương phổ biến tương phản với hình thức chủ nghĩa dân tộc của nhà nước quen thuộc với những người tham gia, những người cũng nhận thức rõ về việc nhà nước không cung cấp cơ hội giáo dục đầy đủ cho con em họ. Đồng thời, giáo viên này đưa ra quyết định về việc trẻ em nào sẽ tham gia cuộc diễu hành, đưa ra rõ ràng “lựa chọn trẻ em nào được phép diễu hành và mang theo cờ, cờ hiệu, dùi cui hoặc kiếm. . . một vấn đề xã hội, vì không phải tất cả mọi người trong cộng đồng đều có đủ nguồn lực/kinh tế cho phép họ mua sắm đồ cho con cái họ trình diễn phù hợp”(sđd, tr. 337; phần nhấn mạnh của tôi). Cuối cùng, cuộc diễu hành đã không diễn ra vì sự đàn áp của các chiến binh chống chủ nghĩa thời bấy giờ (người Sendero). Wilson sử dụng ví dụ này để đưa ra lập luận, theo tôi đồng ý, rằng các mối quan hệ mà giáo viên tham gia với nhau, học sinh và các thành viên cộng đồng là vô cùng quan trọng đối với việc hình thành nhà nước. Những loại mối quan hệ này cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc lập chiến lược chính trị xã hội và nỗ lực tổ chức liên quan của sinh viên, như tôi đã thảo luận trong chương 3, 4 và 5.

Vấn đề về tính phù hợp rất quan trọng cần phải xem xét chi tiết hơn, vì nó liên quan đến các câu hỏi về công dân — xem xét cuốn sách này tập trung vào hành động hàng ngày và quy mô nhỏ của công dân — và chủ quyền. Trong trường hợp của cuộc diễu hành Fiestas Patrias, sự phù hợp bao gồm sự tranh giành quy mô nhỏ về địa vị địa phương chống lại nhà nước quốc gia, nhưng vẫn tìm kiếm sự phê chuẩn của các thành viên cộng đồng và đại diện của nhà nước về cả sự phù hợp về ngoại hình và cách thể hiện. Ví dụ: hình ảnh của các thành viên địa phương về dùi cui và thanh kiếm kém hiệu quả của chế độ chính phủ đó vẫn phải truyền tải một cách thuyết phục các bài hát được tôn trọng của nhà nước. Đó là bằng cách chiếm đoạt các điểm đánh dấu của nhà nước (ví dụ: cờ, thanh kiếm) và sử dụng chúng một cách chính xác mà những người tham gia cuộc diễu hành có thể thách thức chế độ nhà nước bằng cách làm tốt hơn nó. Khi cầm thanh kiếm, họ không tràn đầy nhiệt huyết của nhà nước, như người quỳ gối của Pascal được cho là tin vào Chúa (Althusser, 1971) hay kịch câm của Bourdieu cảm thấy đau buồn (1998). Thật vậy, để trường hợp phản kháng này có hiệu quả, để tập hợp các mối quan hệ xã hội mô tả quốc gia trong một quốc gia có thể tiếp tục tồn tại, thì sự phản kháng phải không được công nhận, chẳng hạn như các hành động chủ quan của những người diễu hành vẫn phải im lặng (Decena, 2008).

Một khái niệm hữu ích ở đây là “trạng thái ngoại lệ” của Agamben, mà ông mô tả như một “loại trừ bao gồm” phát sinh không theo quy tắc, nhưng trong việc đình chỉ nó (1998, trang 21). Để diễn giải Agamben, bằng cách chúng tôi xác định về điều mà quy tắc không chấp nhận, quy tắc hoàn toàn bao gồm quy tắc mà nó loại trừ. Rằng quốc gia có tỉnh bang Andean tồn tại trong mối quan hệ loại trừ với nhà nước được đưa ra trong trường hợp nhà nước từ chối điều kiện sống thực tế của các cộng đồng địa phương. Cuộc diễu hành đánh dấu sự khác biệt của tỉnh bang Andean so với nhà nước, nhấn mạnh việc nhà nước rút khỏi lời hứa cung cấp giáo dục phổ cập. Việc Sendero không có khả năng phân biệt cuộc diễu hành như một đội hình chống đối được làm rõ hơn bởi cuộc thảo luận của Agamben về điều kiện “loại trừ bao gồm”, theo đó, việc bao gồm loại trừ “mọi khả năng phân biệt rõ ràng giữa thành viên và bao gồm, giữa ngoại lệ và quy tắc” (sđd ., tr. 25). Nó cũng được làm rõ bởi vai trò quan trọng mà các giáo viên, ngoài các cán bộ nhà nước khác không chịu sự giám sát hàng ngày của nhà nước, có thể đóng vai trò là “những kẻ lừa gạt thách thức vô số mức độ và bản chất của nhà nước” (Wilson, 2001, tr (317).

Như trường hợp của Wilson chứng minh, quyền công dân trong nhà nước không loại trừ việc bị Nhà nước đó loại trừ. Hơn nữa, các phương thức chính thức của quyền công dân không làm cạn kiệt các hình thức và biểu hiện được trao cho quyền công dân trong các bối cảnh xã hội cụ thể.26 Sau sự hồi sinh của mối quan tâm khoa học xã hội đối với quyền công dân bắt đầu vào những năm 1990, một kho lưu trữ phong phú về các thực hành quyền công dân hiện chứng minh rằng nhiều hình thức quyền công dân có thể hoặc có thể không được phản ánh trong các thể chế, lịch sử hoặc chính sách chính thức của nhà nước. Những hình thức này bao gồm xác định nhóm (Young, 1990; Kymlicka & Norman, 1994), đoàn kết văn hóa (Ong, 1996; Taylor, 1992), thân mật (Plummer, 1995) và tình dục (Bell & Binnie, 2000). Đặc biệt hữu ích để phân tích cơ quan chính trị hóa là việc Beasley và Bacchi đánh giá “cơ quan công dân”, lập luận rằng cơ quan này “hiện thực hóa các hoạt động của quyền lực trong đời sống xã hội” (2000, trang 344).

Về việc thực thi chủ quyền, trường hợp của Wilson chứng tỏ rằng cảnh sát và quân đội không phải là những nhân vật duy nhất được nhà nước trao quyền để thực thi những bất bình đẳng trong xã hội. Để diễn giải Ernest Gellner, ngày càng có nhiều khả năng rằng chuyên gia/giáo sư sẽ là người “đứng ở cơ sở của trật tự xã hội hiện đại” (1983, trang 34). Ở Wilson, không phải nhà nước mà là Sendero và giáo viên áp đặt ý chí của họ lên cơ thể của những người đi diễu hành: Sendero sử dụng mối đe dọa bạo lực, và giáo viên sử dụng lời hứa về quyền tự quyết. Cả hai đều là những ví dụ về cái mà Hansen và Stepputat gọi là các hình thức chủ quyền “trên thực tế”, lấy cơ thể “làm địa điểm và đối tượng của quyền lực chủ quyền” (2006, trang 296–297). Theo Wilson, học sinh được đưa vào quyền lực tối cao thông qua cách xử lý đáng kính của giáo viên đối với dùi cui và kiếm, cũng như qua bài hát về quê cha đất mẹ — được thể hiện bằng lời thoại cùng với các phương thức phản kháng ngầm. Vậy làm thế nào để giáo viên định hình một câu chuyện kể về cuộc kháng chiến trong các động tác, cử chỉ và giai điệu bài hát mừng quốc khánh? Và làm thế nào để học sinh hiểu, dịch và chuyển đổi những kiến thức đó cho riêng họ? Đáng chú ý, tất cả những điều này chỉ diễn ra trong vòng vài giờ, khi cả cộng đồng chuẩn bị trong cuộc diễu hành, mà trong trường hợp này, đã bị hoãn lại và vì vậy không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, thông qua nghiên cứu dân tộc học của Wilson, chúng tôi có bằng chứng về cơ quan nhà nước Peru (tại một thời điểm lịch sử cụ thể), việc thực thi có chủ quyền đối với các đơn vị công quyền và hành động cụ thể, được lý tưởng hóa, cách thức và khả năng phản kháng của người dân đối với các điều kiện phân biệt đối xử như vậy.

Các biểu hiện dân tộc học của nhà nước như những điều vừa thảo luận cho thấy sự hiện diện không chỉ của các “ngôn ngữ” đa dạng của nhà nước mà còn của các cơ quan nhà nước đa dạng. Theo đó, mỗi chính phủ phải được kiểm tra/giám sát đối với các cơ quan mà họ ủy quyền hoặc kỷ luật. Các cơ quan không đáp ứng yêu cầu của các chính phủ này là những cơ quan thường bị gạt ra ngoài lề nhất, cho dù chúng được bao gồm hay loại trừ khỏi các tổ chức của chính phủ/nhà nước đó hoặc, theo Agamben (1998), bị loại trừ thông qua việc đưa vào. Sassen cho rằng “thực tiễn công dân ngày nay liên quan đến việc tạo ra“ sự hiện diện ”của những người không có quyền lực” (2006, trang 315). Do đó, việc kiểm tra quyền công dân đòi hỏi phải đến nơi mà quyền công dân ít rõ ràng nhất. Do đó, việc xem xét lại các vấn đề về chủ quyền và quyền công dân là rất quan trọng đối với việc hoàn thiện lý thuyết khoa học xã hội. Đặc biệt dựa trên sự phê phán của Brook và Luong về sự cố chấp của “quan điểm của người Weberia về chủ nghĩa tư bản”, vốn cho rằng sự phát triển kinh tế là do văn hóa (1997, trang 3).

Không giống như Nhà nước đóng vai trò như tác nhân và hay Nhà nước đóng vai trò hiệu ứng, nhà nước đóng vai trò tưởng tượng/Tư tưởng này không đưa ra giả định về những ngôn ngữ trạng thái đang hoạt động; đúng hơn, cách tiếp cận này mời các nhà nghiên cứu ghi lại chúng. Quay trở lại quan sát của Mbembe (2001) rằng thời hiện đại tạo ra nhiều khái niệm về chủ quyền kéo theo nhiều khái niệm về chính trị sinh học, mà lý thuyết này che giấu, chính nhờ sự cấu trúc liên tục của lý trí trong các hệ thống kinh tế-chính trị cuối hiện đại mà lý thuyết khoa học xã hội thường có thể tiến hành mà không cần tham chiếu đến các cơ quan thực tế suy nghĩ và cảm nhận, đồng tình hoặc không đồng tình, trong một bối cảnh tương tác. Để nói điều này hơi khác, và thanh lịch hơn nhiều, Mbembe viết rằng “Cần lưu ý rằng, liên quan đến nghiên cứu thực địa, ngày càng có ít hơn. Kiến thức về ngôn ngữ địa phương, rất quan trọng đối với bất kỳ sự hiểu biết lý thuyết và triết học nào, được coi là không cần thiết ”(sđd, tr. 7). Tiếp theo, coi trạng thái là hiện thân, đó là cơ thể tương tác, cơ thể ra ký hiệu hoặc nói chuyện với người khác là mối quan tâm trung tâm của phương pháp này.

Nhà nước của sự hiện thân

Hình thức là chính diện mạo của thế giới chứ không phải là điều kiện về khả năng của nó; nó là sự ra đời của một chuẩn mực và không được thực hiện theo một chuẩn mực; nó là sự đồng nhất của bên ngoài và bên trong chứ không phải là sự phóng chiếu của bên trong ra bên ngoài. (Merleau-Ponty (1962, pp. 60–61)

Ba phương pháp tiếp cận của từng loại hình nhà nước được nhắc đến vừa rồi bao gồm các đặc điểm của nhà nước đóng vai tác nhân chi phối, một lực lượng khuếch tán ở nhà nước với vai trò hiệu ứng, và một lực lượng phân biệt với các tác động vật chất bên trong trạng thái nhà nước dùng tư tưởng. Kết hợp những hiểu biết sâu sắc từ ba cách tiếp cận vừa nhắc đến, phần này khám phá các cách thức mà nhà nước được hình thành và điều hành liên quan đến những kinh nghiệm và lợi ích cụ thể.27

Vào đầu những năm 1990, các nhà ngôn ngữ học và nhân học, những người đang khám phá lại hiện tượng học của Edmund Husserl và Merleau-Ponty và sử dụng các công nghệ mới (ví dụ, hình ảnh não) bắt đầu khám phá hiện thân là các lĩnh vực chung của sự chú ý, nhận thức và sự quan tâm (Csordas, 1990; Duranti, 1992; Farnell, 1995; Lakoff & Johnson, 1980, 1999). Mối quan tâm mới mẻ này đối với sự hiện thân như là “nền tảng” của các nền văn hóa ngôn ngữ, tổ chức xã hội và các tương tác giữa con người với môi trường — không chỉ đơn giản là khung biểu diễn hay biểu tượng — đã thúc đẩy nhiều dự án nghiên cứu. Học thuật như vậy đề cập đến các khía cạnh khác nhau của sự tương tác thể hiện và tính tương tác giữa các bên (Csordas, 2008; Hanks, 1995, 2005; Turner, 1995; xem thêm Leder, 1990, 1992; và Weiss, 1999, cho các quan điểm từ triết học), cũng như khả năng dân tộc học cho những hiểu biết phân tích mới về hiện thân cho các bối cảnh văn hóa xã hội cụ thể (Edwards, 2012; Enfield, 2003, 2009; Hanks, 2010; Scheper-Hughes, 199328).

Ví dụ, tác phẩm kinh điển Death without Weeping (tạm dịch: cái chết không tiếng khóc) của Nancy Scheper-Hughes — nghiên cứu năm 1993 của bà với nền kinh tế chính trị về cái chết của trẻ em ở khu ổ chuột Bom Jesus de Mata của Brazil — rất đáng chú ý vì đã chứng minh về mặt dân tộc học cách các chủ thể trở thành “chiến trường”, một khía cạnh của đấu tranh chính trị, và cách thức thực hành ngôn ngữ là phương tiện thông qua đó các bà mẹ tương tác hình thành các kỳ vọng được quy ước hóa và giải thích cho cái chết của trẻ em. Dưới sự đe dọa trực tiếp của bạo lực nhà nước, bệnh tật nổi lên như một phương thức phản kháng chính trị và tiềm năng cách mạng chính.

Tác phẩm của Ahmed (2007) và Leap (2008) cung cấp các ví dụ quan trọng khác về tầm quan trọng của các cơ quan cụ thể đối với bối cảnh cụ thể do nhà nước làm trung gian. Hiện tượng học của Ahmed coi màu trắng là định hướng và chân dung thể hiện cách chúng ta trải nghiệm hoàn cảnh của mình là “quen thuộc”, “thế giới mà chúng ta ngầm hiểu, như một thế giới được tổ chức theo những cách cụ thể” (2007, trang 155). Ahmed tiếp tục:

Để nghĩ về kiến thức tiềm ẩn này như được thừa hưởng là suy nghĩ về cách chúng ta thừa hưởng mối quan hệ với địa điểm và vị trí: ở nhà, mọi thứ không được thực hiện theo một cách nhất định, mà là người nội trợ “‘ đặt mọi thứ ”vào vị trí của chúng. Độ trắng được di truyền thông qua vị trí của mọi thứ (ibid.).

Cuộc điều tra của Leap’s (2008) về các mối liên hệ giữa giới tính và địa lý ở Cape Town sau sinh cũng chứng minh tương tự cách một số người Nam Phi da trắng ở trung tâm thành phố kêu gọi tình dục chọn lọc để điều chỉnh chủng tộc và / hoặc giai cấp trong các câu lạc bộ đồng tính nam da trắng và tương đối giàu có. Trong các câu lạc bộ đồng tính ở trung tâm thành phố, một cách đọc liên quan đến hiện thân (chủng tộc, tình dục) và hiển thị (dấu hiệu đẳng cấp như quần áo) có thể được đem ra so sánh với một nhóm khác vì các hình thức quy định và kỷ luật được hệ thống hóa thuộc địa được thực hiện lại thông qua các bài diễn thuyết đa dạng của Nam Phi khi họ xuất hiện trong các không gian cụ thể (ví dụ: câu lạc bộ đồng tính ở trung tâm thành phố, Cape Flats shebeens thân thiện với người đồng tính (các địa điểm tụ tập địa phương phục vụ đồ ăn và thức uống). Leap lập luận, để hiểu mô tả tường thuật về địa lý giới tính, chúng ta phải thực hiện xã hội tìm hiểu các hoàn cảnh và kinh nghiệm liên quan (sđd, tr. 259); hơn nữa, làm như vậy “buộc phải đối mặt với di sản của cấu trúc xã hội và các thực hành mô tả có từ những năm phân biệt chủng tộc trở về trước, và những bài diễn thuyết về quyền công dân, hòa giải, và xây dựng quốc gia chỉ mới bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 1990 ”(sđd).

Sự chú ý tương ứng của Leap và Ahmed đến các đặc điểm tổ chức của địa lý và nơi cả hai đều làm sáng tỏ các hình thức thuần hóa thông thường. Trải nghiệm cơ thể và các giá trị mà chúng ta gán cho cơ thể luôn có nguồn gốc lịch sử từ các quy trình đặc quyền phức tạp.

Gần đây trong lĩnh vực tìm hiểu về nhận thức vấn đề ngôn ngữ học (ví dụ không phải người Chomsky) (Dancygier & Sweetser, 2015; Evans & Green, 2006; Kovecses, 2010, 2015; Langacker, 2000, 2009) và khoa học nhận thức (Gallagher, 2005; Johnson, 2007) đã góp phần vào việc hiểu biết sâu sắc về cách sử dụng ngôn ngữ, hiện thân và tổ chức xã hội bằng cách khám phá bản chất của quan điểm và ý nghĩa. Tổng hợp lại, nghiên cứu như vậy chứng minh rằng những gì thường được gọi là "tri thức con người" về cơ bản liên quan đến trải nghiệm của cơ thể chúng ta29. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học và nhận thức đang kiểm tra xem có đúng là các ngôn ngữ ký hiệu đang đóng góp lớn cho lĩnh vực nghiên cứu này bằng cách phân tích các mối quan hệ phức tạp giữa các thuộc tính không gian, thời gian, động học, khái niệm và ngữ nghĩa của việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu (Armstrong & Wilcox, 2007; Dudis, 2004, 2011 ; Janzen, 2015; Liddell, 2003; Taub, 2001; Wilcox & Shaffer, 2005).30

Chấp nhận ngôn ngữ luôn là một trải nghiệm thể hiện — cho dù được ký hiệu, được nói, được viết, đánh máy, nhắn tin, biểu tượng cảm xúc hay tưởng tượng — làm cách nào để chúng ta hiểu được cơ thể bị xóa khỏi phần lớn lý thuyết ngôn ngữ và do đó, khỏi các lĩnh vực khác của xã hội? Johnson (2007) cung cấp cả cái nhìn sâu sắc về những hoàn cảnh này và hỗ trợ cho tầm quan trọng của ngôn ngữ và cơ thể đối với sự hình thành trạng thái.

Johnson thiết lập luận điểm của mình về sự hiện thân trong bối cảnh hậu quả xã hội và khoa học của những quan niệm nhị nguyên về tâm trí tách biệt với thể xác31. Johnson lập luận rằng các giải trình của người theo chủ nghĩa đại diện về tâm trí mô tả các thực thể tinh thần là độc lập với thế giới; trong mô hình này, tư tưởng tương ứng hoặc đại diện cho các sự vật trong thế giới nhưng không có tương tác có ý nghĩa với thế giới. Ông tiếp tục chứng minh rằng khái niệm nhị nguyên không chỉ là một ý tưởng (theo nghĩa nhị nguyên, tách biệt với thế giới) mà bắt nguồn từ các cơ chế sinh học thần kinh che đậy cách cơ thể là một phần của suy nghĩ. Một trong những cơ chế như vậy Johnson có thuật ngữ “sự biến mất trong cơ thể”, rút ra từ “sự biến mất tiêu điểm” của Leder (1990): Để một vật thể được rút ra khỏi trường tri giác, ví dụ, cơ thể phải hoạt động theo cách sao cho “cơ thể chúng ta với các cơ quan và hoạt động rút lui và thậm chí ẩn trong hành vi của chúng ta khi trải nghiệm những điều trên thế giới ”(Johnson, 2007, trang 4). Johnson đưa ra ví dụ về việc nhìn thấy: “Tôi nhìn bằng mắt (khi tiêu cự biến mất), nhưng việc nhìn thấy sẽ là không thể nếu đôi mắt đó tồn tại trong một cơ thể thực hiện một số điều chỉnh tốt, chẳng hạn như giữ cách đầu thẳng, giữ cho cơ thể đứng thẳng và hướng theo một hướng nhất định, và di chuyển cơ thể theo những cách đảm bảo một đường nhìn rõ ràng ”(sđd, tr. 5; nhấn mạnh trong nguyên tác). Cấu tạo của một đối tượng từ trường tri giác, cái mà Edmund Husserl (1931) gọi là đường chân trời, tự nó đòi hỏi sự biến mất hoặc bán cầu của các đối tượng lân cận.

Diễn giải lập luận “những đứa trẻ lớn” của mình, Johnson cho rằng cách chúng ta hiểu thế giới, từ những khoảnh khắc đầu tiên của cuộc đời, là cách tương tác về mặt chất lượng với thế giới. Theo đó, việc hiểu biết thế giới chủ yếu được thực hiện qua trung gian của những trải nghiệm dựa trên cơ thể chứ không phải bởi những kiến thức khái niệm hay những thứ chúng ta được dạy. Theo Johnson, nghĩa là “không chỉ là những gì được xem một cách có ý thức trong các hành vi cảm giác và suy nghĩ; thay vào đó, ý nghĩa đi sâu vào cuộc gặp gỡ vật chất của chúng ta với môi trường của chúng ta ”(2007, trang 26). Do đó, trải nghiệm dựa trên tương tác làm phát sinh khái niệm nhưng không thể giảm xuống thành khái niệm. Johnson lập luận thêm rằng các đối tượng khái niệm không tồn tại tự nhiên mà được cấu thành từ “năng lực tri giác và vận động, sở thích, lịch sử và giá trị của chúng ta” (ibid., P. 76). Merleau-Ponty đã diễn đạt điều này hơi khác: “Cuộc sống của ý thức - cuộc sống nhận thức, cuộc sống ham muốn hoặc cuộc sống tri giác - được phụ thuộc bởi một 'vòng cung có chủ đích', nó chiếu quanh chúng ta về quá khứ, tương lai của chúng ta, bối cảnh con người của chúng ta, thể chất của chúng ta, tình hình tư tưởng và đạo đức”(1962, tr. 136).

Trong quá trình kiểm tra các mối quan hệ giữa thể hiện kinh nghiệm và tương tác xã hội học, công việc của Johnson cũng thiết lập một khuôn khổ để khám phá các mối liên hệ giữa kinh nghiệm cơ thể với tổ chức văn hóa xã hội và chính trị. Sự nhấn mạnh của Johnson về môi trường và sự nhấn mạnh của Merleau-Ponty về “tình huống” đều nêu bật bản chất lịch sử của trải nghiệm tương tác dựa trên cơ thể; nghĩa là, ý nghĩa không bất biến trong không gian và thời gian mà liên tục thay đổi. Theo quan điểm thứ hai, ngay cả trải nghiệm cơ thể theo thói quen cũng luôn được hình thành không chỉ liên quan đến những thứ như thay đổi trong bối cảnh và hoàn cảnh, lão hóa và bệnh tật mà còn liên quan đến các khái niệm được cấu hình lại thông qua các hình thức mới của các hoạt động được coi là thói quen. Quan điểm này làm phức tạp quan niệm của Bourdieu về hexis cơ thể để điều chỉnh các mô hình chuyển động lặp đi lặp lại, mở ra để thay đổi tình huống và như một động lực trong cả sự hình thành và thay đổi xã hội (1984).

Phù hợp với sự biến mất tiêu điểm và cơ thể, cũng như cơ thể hexis, các thực hành môi trường hiện thân tích lũy của chúng ta cảm thấy phù hợp với chúng ta — không chỉ trên các cấp độ thể chất, cảm xúc và giao tiếp mà còn về mặt xã hội và chính trị. Ý thức về sự đúng đắn được kết nối với những cách làm thông thường góp phần vào việc tự nhiên hóa và bình thường hóa các đặc điểm của cơ thể chúng ta và các hoạt động cơ thể của chúng ta. Trong các tổ chức của nhà nước, hệ tư tưởng về cơ thể được lồng vào việc tán thành một cách vô nghĩa các ý kiến chuyên gia nhất định về thiết kế thể chế, chính sách xã hội, kỷ luật đối với các nhóm được coi là lệch lạc và các hình thức can thiệp khác vào các hình thức và thực hành của cơ quan không có ý nghĩa. Là một công cụ phương pháp luận, trạng thái như một phương án góp phần điều tra xem Collier và Lakoff thuật ngữ “chế độ sinh hoạt” hay “cấu hình định vị của các yếu tố quy chuẩn, kỹ thuật và chính trị được đưa vào liên kết trong các tình huống có vấn đề hoặc không chắc chắn” (2004, tr . 31).

Các chế độ biến mất, kỷ luật, điều chỉnh và loại trừ các cơ quan — hoặc bao gồm, thúc đẩy và tham gia vào các hoạt động cơ thể — là những vấn đề mang tính kinh nghiệm, chứa đầy những ràng buộc về ý thức hệ và những mệnh lệnh cấp nhà nước. Đó là khi chúng ta coi nhà nước là hiện thân của chủ quyền, cái mà Foucault gọi là “quyền cổ xưa được sống hoặc được cho phép sống . . . được thay thế [trong thời hiện đại] bằng một sức mạnh nuôi dưỡng sự sống hoặc không cho phép nó đến mức chết, ”có quan điểm rõ ràng hơn (Foucault, 2003, trang 80; nhấn mạnh trong bản gốc).

Tiếp theo các mệnh đề được nêu trong hiện thân của chủ quyền, chúng ta có thể chuyển sự tập trung của Hansen và Stepputat (2001) vào các cách mà “các trạng thái tiếp thu thực tế trong cuộc sống hàng ngày” theo hướng khác để hỏi những điều sau: đời sống? Làm thế nào để các tác nhân thể chế (các nhà hoạch định chính sách, hiệu trưởng, giáo viên) quản lý vận hành các cơ quan này đang mệt mỏi / và sự trải nghiệm của chính họ để đặt ra các điều khoản về tương tác thể chế? Nghiên cứu này chủ yếu liên quan đến những người có hành động và tương tác liên quan đến các địa điểm giáo dục và tổ chức xã hội.

Kết luận

Trong chương 1, đánh giá của Reilly và Nguyễn’s (2004) về giáo dục hòa nhập ở Việt Nam nhấn mạnh rằng cả cơ cấu phổ cập giáo dục tiểu học ở cấp quốc gia và các quyết định về chính sách và quản lý ngôn ngữ giảng dạy đều phụ thuộc vào chính sách của chính phủ. Vì các chương tiếp theo trình bày các chính sách về ngôn ngữ giáo dục người Điếc bị ảnh hưởng nặng nề bởi các dạng chia sẻ thông tin của các chuyên gia khác nhau, điều này cũng tạo điều kiện cho việc tạo ra các đánh giá giáo dục và các khuôn khổ quy định khác mà các nhà quản lý trường học, các nhà quản lý đào tạo nghề, và ngày càng nhiều người sử dụng lao động phải tuân thủ thực hành hàng ngày. Chương 3 tập trung vào các mối quan hệ giữa cấu trúc nhà nước và cơ cấu giáo dục, các địa điểm và thực hành trong đó giáo viên và học sinh tương tác với nhau, và cách mà người học trưởng thành kiêm nhà tổ chức xã hội phân tích hoàn cảnh xã hội học của họ, cả trong quá trình hồi tưởng và trong thời điểm tức thì của các tình huống cụ thể. Trong phân tích đang diễn ra này, những người Điếc Việt Nam sử dụng ngôn ngữ ký hiệu có thể được hiểu rõ nhất là những công dân, mà những công dân này có trách nhiệm giám sát quốc gia về cả chính sách và thực hiện chính sách của nhà nước.

Đáng chú ý, sự giám sát quốc gia hướng đến người Điếc Việt Nam sử dụng NNKH TP HCM (và các NNKH Việt Nam khác) xảy ra trong bối cảnh các hình thức bất bình đẳng đang nổi lên khác mà nhà nước đóng vai trò quan trọng. London lập luận như sau:

Sự phát triển của một hệ thống giáo dục chính quy gần như phổ cập ở Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội - nhà nước quản lý hóa tập trung là một đề án được xây dựng trên cơ sở liên minh giai cấp ổn định, tạo ra những thành tựu lịch sử về xóa mù chữ và giáo dục tiểu học, và giúp Đảng Cộng sản Việt Nam đạt được thành công lớn. Nhưng theo thời gian, chủ nghĩa xã hội nhà nước đã tạo ra hệ thống phân cấp giai cấp mới, chính sách giáo dục và hành vi của họ đã thúc đẩy sự bất bình đẳng lớn về giáo dục, nhiều nguyên nhân trong số đó là do cơ chế phân phối nhà nước - xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ chủ nghĩa xã hội - nhà nước kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường liên kết quốc tế đã tạo điều kiện cho sự gia tăng nhanh chóng về quy mô giáo dục chính quy và — về các khía cạnh quan trọng — cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận giáo dục. Nhưng sự xuất hiện của một nền kinh tế mới đã làm thay đổi đặc điểm của các quan hệ giai cấp - cả bên trong và bên ngoài nhà nước. Hiện tượng này kết hợp với các chính sách giáo dục mới và các yếu tố khác, đã góp phần làm xuất hiện các cơ chế tạo ra bất bình đẳng mới, trong một số trường hợp đã thay thế, và trong một số trường hợp khác, đã bổ sung vào di sản bất bình đẳng của chủ nghĩa xã hội nhà nước. (2011, tr. 92)

Như các chương còn lại của cuốn sách này, hệ thống trường học chuyên biệt dành cho giáo dục người Điếc và giáo dục hòa nhập là hai trong số “cơ chế tạo ra bất bình đẳng mới” ở Việt Nam. Có vẻ nghịch lý là một số - không phải tất cả - các trường giáo dục chuyên biệt dành cho người Điếc cũng là những nơi mà các cơ chế tạo bình đẳng mới đang hình thành. Tôi sẽ đề cập đến hai mối quan tâm này trong chương tiếp theo.

1. VNIES: http://vnies.edu.vn

2. Báo cáo của cô Kim Thoa. Xem http://giaoducthoidai.vn/thoi-su/ho-tro-nguoi-khiem-thinh-hoa-nhap-cong-dong-532871-v.html

3. Ghi chú ở đây là nhà báo đã không viết hoa chữ “Điếc” như yêu cầu của lãnh đạo người Điếc và cộng đồng của họ trong nghiên cứu này.

4.Các bài báo không sử dụng từ “Điếc”, như yêu cầu của lãnh đạo người Điếc và thành viên nhóm nghiên cứu này.

5. Năm 2012 và 2014 chương trình giáo dục đặc biệt này đã có tổng cộng là 17 sinh viên của 2 khoá đã tốt nghiệp với bằng Cao đẳng sư phạm tiểu học. Trong số này đã có 7 sinh viên đang theo tiếp lên đại học.

6. Xem thảo luận trong Chương 1 của Neustupny ́ (2006) về quản lý ngôn ngữ. Nghiên cứu từ và phản biện về lĩnh vực lập kế hoạch và chính sách ngôn ngữ (LPP) là đặc biệt quan trọng ở đây. Liên quan đến NNKH, vui lòng xem tại Eichmann (2009), Reagan (2010), và Murray (2015).

7. Nearly 2,000 years later John Bulwer, a London-based physician, wrote Philocophus, which advocates the education of Deaf people according to a variety of methods, including gestures but particularly through teaching the eye to “heare” (Bulwer, 1648). Among the first sign-based schools for Deaf students was the school established in France 100 years later by Charles-Michel de l’Épée, who created signs for concepts found in the French language. During the next 100 years, Deaf people’s increasing access to education facilitated the movement of trained Deaf educators of Deaf students into Deaf educational institutions as teachers in their own right. Just a few years after Herbert Spencer’s notion of social Darwinism first appeared in Europe, the infamous 1880 Second International Congress on Education of the Deaf in Milan, Italy, effectively ended the practice of hiring deaf educators of Deaf students by promoting oral methods of instruction rather than manual ones.

8. Thông báo về quyết định ICED đã được bao phủ rộng rãi bởi các phương tiện truyền thông Điếc và các cơ sở học tập. Phản ứng của các nhà lãnh đạo Điếc thế giới bao gồm các báo cáo của Liên đoàn thế giới của người Điếc (http://wfdeaf.org/news/international-congress-of-the-deaf-iced-july-18-22-2010-vancouver-canada) và sau đó là chủ tịch của Đại học Gallaudet, Alan T. Hurwitz (http://www.gallaudet.edu/news/iced-milan-rejected.html).

9.5 cựu sinh Điếc là những người tôi phỏng vấn trong thảo luận nhóm trong độ tuổi 45 (năm 2009) và là bạn học cùng lớp tại trường Lái Thiêu từ khi còn trẻ và đến tuổi trưởng thành. Sau năm 1975 họ tốt nghiệp và trường yêu cầu học sinh tốt nghiệp và về làm nghề nông nghiệp phát triển đất nước.

10.Tại Hoa Kỳ, niềm tin là cung cấp thông tin cho các quyết định giáo dục giống như tiêu chuẩn cốt lõi chung của các tiểu bang (CCSS) nhằm mang lại nền giáo dục tuyệt vời thông qua việc đánh giá học tập hàng ngày một cách quy chuẩn (Horvat & Baugh, 2015; McGuinn, 2015) và Tiêu chuẩn Khoa học Thế hệ Tiếp theo. Những niềm tin khác, đặc biệt là những niềm tin phổ biến trong dân chúng nói chung, bao gồm niềm tin rằng việc sử dụng Ngôn ngữ ký hiệu của Mỹ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng đọc viết tiếng Anh thông thường. Điều thứ hai được chứng minh là, trong số các thực tiễn được thể chế hóa khác, chương trình giáo dục yêu cầu hoặc cho phép giáo viên sử dụng tiếng Anh nói đồng thời với việc dạy NNKH (SimCom).

11.Phỏng vấn một người mẹ có con gái Điếc cũng khẳng định định kiến xã hội tương tự. Người mẹ, theo đạo Thánh, đã chia sẻ là những người theo đạo phật họ cho rằng những đứa con như đứa con của bà bị câm Điếc là tuân theo luật nhân quả. Bà ấy cũng giải thích là khi con bà đòi tiền tiêu dù rất vô lý nhưng bà cũng vẫn cho vì nghĩ rằng kiếp trước bà đã nợ con gái bà rồi.

12. Để phê bình lập trường của Mori về tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ ký hiệu ở các nước đang phát triển, hãy xem Adam (2015), viết: “[Mori lập luận rằng tiêu chuẩn hóa] sẽ tăng cường quyền con người của người Điếc và dẫn đến sự tôn trọng nâng cao đối với văn hóa và ngôn ngữ của người Điếc. Quá trình này vẫn đặt ra câu hỏi về việc ai đang thúc đẩy quá trình tiêu chuẩn hóa này, liệu người Điếc ở Myanmar có thực sự có bất kỳ quyền kiểm soát nào đối với quá trình này hay không và liệu họ có quyền sở hữu ngôn ngữ nào hay không ” (trang. 437).

13.Komitee Twee (KT) là một INGO của Hà Lan với nhiều dự án khác nhau tại Việt Nam. Trước đây tập trung vào đào tạo về hướng dẫn dựa trên giọng nói và phân phối máy trợ thính, công việc này do Barry Wright phụ trách, trong khi phần lớn đào tạo giáo viên do Betty Maas thực hiện. Mặc dù KT không còn đào tạo giáo viên trong các trường chuyên biệt dành cho người Điếc, nhưng KT vẫn tổ chức các buổi thuyết trình và hội thảo định kỳ tập trung vào can thiệp sớm và “phục hồi chức năng” cho trẻ Điếc. Để biết thêm thông tin về các hoạt động của KT tại Việt Nam, hãy xem http://www.vusta.vn/vi/news/Cac-to-chuc-phi-chinh-phu-quoc-te/Komitee-Twee-of-the-Netherlands-KTwee-BR-Uy-ban-II-Ha-Lan-1086.html

14. Xem Harris, Holmes, and Mertens (2009) and Singleton, Jones, and Hanumantha (2014).

15. Kiểm tra sự tương tác giữa người ĐIẾC và NGƯỜI NGHE cùng các nhóm (những người tham gia và sử dụng NNKH và những người không sử dụng NNKT) vẫn chưa nhận được sự quan tâm của các học giả. Tuy nhiên, một cuộc khảo sát đơn giản về các hoạt động truyền thông mạng xã hội, các video, bản tin nội bộ và các sản phẩm truyền thông khác đã chỉ ra rõ ràng sự tiếp xúc đó không chỉ đơn thuần là đối lập về danh tính, chủ quan hoặc kết quả vật chất (ví dụ: đạt được các quyền kiểm soát xã hội, sinh kế bền vững).

16. Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh là tờ báo của Đoàn thanh niên cộng sản HCM.

17. Một số thành viên nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng NNKH TP HCM |HỖ TRỢ| đã ủng hộ trong định nghĩa tiếng Việt.

18. Một bài báo về sử dụng điện cực ốc tai với chủ đề “Tạo màng nghĩ cho người khiếm thính”, báo Người lao động, ngày 15 tháng 6 năm 2006: http://nld.com.vn/khoa-hoc/tao-mang-nhi-cho-nguoi-khiem-thinh-154316.htm; 300 người thoát đời câm Điếc nhờ cấy ốc tai, Vietnam Express Online, Ngày 16 tháng 12 năm: http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/300-nguoi-thoat-doi-cam-diec-nho-cay-oc-tai-3514641.html

19. Một lịch sử hoàn chỉnh của dự án duy lý và những tác động của nó đối với các trật tự chính trị xã hội, ngôn ngữ và cơ thể, có thể nằm ngoài khuôn khổ bàn luận của quyển sách này. Để biết các lập luận toàn diện hơn, hãy xem W. Brown, 1995; Damasio, 1994[2005Johnson, 2007; Lakoff & Johnson, 1999; and Strathern, 2000.

20.Các nhà giáo là người Điếc đã bị cấm tham gia cuộc bỏ phiếu của ICED Mi Lan, Ý. [Có một đại biểu Điếc: James Denison (xem Van Cleve & Crouch, 1989, trang 109–111)]. Đại diện cho 2 quốc gia lớn là Hoa Kỳ và Liên hiệp vương quốc Anh đã bỏ phiếu phản đối lệnh cấm (xem Branson & Miller, 2002; Ladd, 2003, Lane, 1984; and Van Cleve & Crouch, 1989). xem chương 4 thảo luận ý nghĩa vi phạm của Đại hội Mi Lan, Ý.

21. Ví dụ, Karl Marx (1973[1857]) sử dụng một khái niệm về tính phổ quát của ngôn ngữ. Giorgio Agamben sử dụng cấu trúc liên kết của Saussurean về cách phát biểu dựa trên quy tắc từ cái chung (ngôn ngữ) đến cái riêng (parole) (2005, trang 39).

22.Câu này được Radcliffe-Brown dẫn chiếu, trong khi Abrams (1988), Arextaga (2003), và Trouillot (2001) thảo luận về các cách tồn tại của nhà nước hóa.

23.Cuộc kiểm tra của Laitlin về các xung đột chính trị và tôn giáo ở Yorubaland, Nigeria, là một ngoại lệ (1985, pp. 285–316).

24.Ví dụ, Foucault lập luận rằng chính quyền không thể nắm giữ trong thế kỷ XVII vì sức mạnh đàn áp của “nhà nước lý trí”, trong đó “thể chế chủ quyền là thể chế chính trị cơ bản và việc thực thi quyền lực được hình thành như một hoạt động của chủ quyền ”(1991, tr. 97). Tuy nhiên, vào thế kỷ 19, tính hợp lý về kinh tế đã đủ thấm vào các thể chế của nhà nước như việc kiểm soát trực tiếp của cảnh sát và quân đội không còn cần thiết để duy trì các hành vi mong muốn của các đối tượng (Foucault, 2009, trang 354).

25. Bakhtin mô tả ngôn ngữ là mối quan hệ đối thoại giữa người nói và người nghe, bao gồm nhiều hình thức, thể loại và phong cách đối thoại có sẵn cho người nói và người nghe trong diễn ngôn (1981, trang 272). Lý thuyết của Bakhtin về ngôn ngữ không xác định rõ nghĩa hoặc các kết hợp mà nghĩa có thể có mà hướng người nghiên cứu trở lại bối cảnh của phát ngôn. Trong phần ghi chú bản dịch của mình cho tác phẩm của Bakhtin, Holquist, tóm tắt sự nhấn mạnh lý thuyết của Bakhtin do đó: “Ngôn ngữ, khi nó có nghĩa là ai đó đang nói chuyện với người khác, ngay cả khi người đó là người tiếp nhận nội tâm của chính người đó (1981, trang xxi). Hơn nữa, ngữ cảnh của phát ngôn được đan xen với các mối quan hệ quyền lực và quyền hành, đó là những mối quan hệ của “con người sống di chuyển trong không gian chứ không chỉ đơn thuần là một cơ thể vật chất” (sđd, tr. 105).

26. Với Agamben, công dân “gọi tình trạng mới của cuộc sống là nguồn gốc và nền tảng của chủ quyền,” và do đó quyền công dân tạo tiền đề cho bản chất và mức độ của sự loại trừ bao gồm (1998, p. 129).

27. Tôi mang ơn một số nhà dân tộc học mà công việc của họ đã góp phần vào việc nghiên cứu liên tục của tôi về phương pháp tiếp cận hiện thân của nhà nước: Ahearn (2001, 2003); Ahmed (2006, 2007, 2012); Blommaert (2005, 2013); Duranti (1994); Edelman (2011, 2013); Jaffe (1999, 2009); và Leap (2008, 2011), là một trong số những người khác nữa.

28.Xem Asad (2003), Lock 1993a), và Farnell (1999) cho đánh giá về nhân chủng học của cơ thể và hiện thân.

29. Tôi đặt kiến thức của con người trong dấu ngoặc kép ở đây để đánh dấu một thực tế rằng, vì loài người không có yêu cầu duy nhất về trải nghiệm cơ thể, nên kiến thức không thể được kết hợp đơn lẻ với “con người”. Nghiên cứu khoa học nhận thức như vậy hỗ trợ việc kiểm tra ý nghĩa do các nhà nhân học và những người trong các lĩnh vực nghiên cứu liên quan thực hiện để mở rộng phạm vi về cách thức khái niệm hóa tri thức.

30.Học thuật nhân học về chủng tộc cũng đã khám phá vai trò của nhận thức thể hiện liên quan đến “cách nhìn” ảnh hưởng đến sự hình thành dân tộc, chủng tộc, phân loại xã hội và khuôn mẫu (Brubaker, Loveman, & Stamatov, 2004, trang 45).

31.Đối với phê bình triết học về chủ nghĩa kinh nghiệm nói chung và tác động cụ thể của Descartes đối với các quan niệm khoa học về tâm trí và cơ thể, hãy xem phần thảo luận của Merleau-Ponty (1962) về các định kiến truyền thống (chương 3 và 4). Đối với phê bình sinh học thần kinh đối với lý thuyết của Descartes về tâm trí và cơ thể, đặc biệt là vai trò của cảm xúc trong việc ra quyết định, xem Damasio (2005).

Annotate

Next Chapter
Chương 3. Giáo dục cho người Điếc và Tổ chức xã hội cho người Điếc: Các địa địa điểm hòa nhập và loại trừ xã hội
PreviousNext
© 2017 by Gallaudet University All rights reserved
Powered by Manifold Scholarship. Learn more at
Opens in new tab or windowmanifoldapp.org