Giới thiệu
Ngôn ngữ ký hiệu nhìn từ góc độ tham gia vào xã hội và đóng góp cho quốc gia
Một buổi chiều thứ 3 vào cuối tháng 12/2008, Dự án Giáo dục (DAGD) ở Đồng Nai, Việt Nam đã cho phép 50 học sinh là người trưởng thành được tan học sớm để theo dõi một người bạn cùng lớp xuất hiện trên một chương trình phát sóng trên kênh truyền hình của tỉnh. Đó là Trang, một học sinh tốt nghiệp cấp 3 của DAGD. Em được mời tham gia một chương trình truyền hình nằm trong chuỗi hoạt động chào mừng 310 năm hình thành vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai (1698–2008). Tại thời điểm đó, việc sử dụng các ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam (NNKH Việt Nam) tại các trường chuyên biệt cho học sinh Điếc do chính phủ tài trợ là một vấn đề còn nhiều tranh cãi, và NNKH Việt Nam cũng hiếm khi xuất hiện trên bất kỳ phương tiện truyền thông đại chúng nào. Hôm đó, tôi đang dự giờ lớp học tại DAGD trong khuôn khổ chuyến thực địa phục vụ cho luận văn tiến sỹ tại những địa điểm trong cộng đồng người Điếc. Các cán bộ giáo viên DAGD, các em học sinh và cá nhân tôi rất hứng khởi và nhanh chóng ổn định chỗ ngồi để mọi người đều có thể theo dõi được chương trình truyền hình mà không bị khuất tầm nhìn.
Hình i.1. Hình trái, Sân Văn Miếu.
Hình i.2. Áp phích kỷ niệm “310 năm hình thành và phát triển tỉnh Đồng Nai Nam).
Chương trình kỷ niệm 310 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai do Truyền hình Đồng Nam (DN2) sản xuất, trong đó giới thiệu lịch sử hình thành tỉnh Đồng Nai và những thành tựu đương đại của các cá nhân tiêu biểu xuất thân từ Đồng Nai hoặc góp phần vào sự phát triển của tỉnh. Trọng tâm của chương trình là phần hội diễn mô phỏng những sự kiện lịch sử nổi bật của tỉnh, được ghi hình ngoài trời trong sân Văn Miếu Trấn Biên, gọi tắt là Văn Miếu, thuộc khuôn viên của Đền Trấn Biên lịch sử (xem Ảnh i.1 và i.2).1 Bên cạnh những nghi lễ truyền thống, chương trình cũng tôn vinh những thành tựu xã hội của 4 phụ nữ, gồm có một người được trao học bổng trường y; một giáo viên dạy hóa cấp ba, đồng thời cũng là một ca sỹ thành công được nhiều người biết đến; một người khuyết tật nhiều người biết đến sau khi hoàn thành chương trình cao học ở Hoa Kỳ và trở về Việt Nam để thành lập một tổ chức của người khuyết tật ở thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM); và Trang, một trong những người Điếc sử dụng ký hiệu đầu tiên tốt nghiệp cấp 3 ở Việt Nam.
Việc Trang sắp xuất hiện trên kênh truyền hình quốc gia nhận được sự quan tâm chú ý của mọi người. Điều gì đã đưa người Điếc sử dụng ký hiệu trở thành tâm điểm của công chúng? Sự kiện này có thể hiện phương hướng xây dựng chính sách của nhà nước đối với người Điếc và ngôn ngữ bằng ký hiệu2 hay không?3 Và vì chương trình này được phát sóng trực tiếp ở cả Đồng Nai và trên cả nước nên nếu được trao cơ hội, Trang sẽ nói gì về trải nghiệm của mình với tư cách là một người Điếc trong xã hội Việt Nam đương đại?
Ở tuổi 24, Trang có vẻ như là hình ảnh đại diện cho những thành công trong công cuộc cải cách chính trị - xã hội và là người có đóng góp nổi bật vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như tiến trình hiện đại hóa đang diễn ra. Cô cũng là một trong số rất nhiều người dường như có thể đại diện cho thành tựu của cộng đồng người Điếc Việt Nam. Tuy nhiên, những hình ảnh bề ngoài này đã không phản ảnh được những hoàn cảnh thực sự của người Điếc ở thế kỷ 21. Tại thời điểm Trang xuất hiện trên truyền hình, kể từ khi DAGD đi vào hoạt động năm 2000, chỉ có khoảng 80 học sinh theo học DAGD có cơ hội học cấp 2 dạy bằng ngôn ngữ bằng ký hiệu địa phương đó là ngôn ngữ ký hiệu TP. Hồ Chí Minh (NNKH TP.HCM).4 Mặc dù Việt Nam có một trong những trường dạy bằng ngôn ngữ bằng ký hiệu đầu tiên trên thế giới là trường Câm-Điếc Lái Thiêu được thành lập trong thời kỳ Đổi mới kinh tế - chính trị (Đổi mới, từ năm 1986 - hiện nay), nhà nước Việt Nam bắt đầu thiết lập trên cả nước hệ thống các trường chuyên biệt dựa trên ngôn ngữ nói và giảng dạy bằng tiếng Việt viết/in và ngôn ngữ nói. Giữa thập niên 1990, việc triển khai giáo dục hòa nhập (GDHN) đã thúc đẩy việc cho các học sinh Điếc nhập học tại các lớp học thông thường. Khi học ở trường có các học sinh Điếc cùng trang lứa khác mà trường không cho dùng ngôn ngữ bằng ký hiệu hoặc cho phép sử dụng ký hiệu nhưng phải theo trật từ từ của tiếng Việt (các trường chuyên biệt) hoặc học tại trường không có các học sinh Điếc cùng trang lứa và không sử dụng ngôn ngữ bằng ký hiệu (GDHN) thì học sinh đều có kết quả học tập không tốt. (Reilly & Nguyễn, 2004; Tạc, 2000; cf. Lễ, 2013; NCCD, 2010; và Kham, 2014)
Tại thời điểm Trang xuất hiện trên truyền hình, những người Điếc - cụ thể là những người đã đi học hoặc đang đi học - đều rất ít hoặc không tiếp cận được với nội dung giáo dục; những người này sau khi rời khỏi ghế nhà trường thì hoặc thất nghiệp hoặc làm những công việc chân tay với mức lương thấp do trước năm 2008 chỉ có rất ít người Điếc tốt nghiệp cấp 3 hoặc đại học cao đẳng chính thức (GSO, 2006; NCCD, 2010).5 Do đó, tại thời điểm đó không có người Điếc nào có chứng chỉ sư phạm để họ có thể theo đuổi con đường dạy học, như Trang đã đề xuất trong phần chia sẻ của mình trên truyền hình.
Không rõ rằng trong số những người xem chương trình kỷ niệm 310 năm hình thành vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, có nhiều người biết về những hoàn cảnh và tình trạng về giáo dục cho người Điếc, đặc biệt là từ quan điểm của một người Điếc hay không. Mặc dù các trường chuyên biệt cho học sinh Điếc thường xuyên xuất hiện trong báo cáo về phúc lợi xã hội và nhân đạo năm 2008 nhưng nội dung thường tập trung về những vấn đề mà ban giám hiệu và giáo viên gặp phải khi dạy học sinh Điếc.6 Trong những trường hợp này, Điếc được mô tả là một tình trạng bệnh lý trong đó người mắc không có một số khả năng nhất định - không nói chuyện (no speaking), không có khả năng nghe (no hearing ability), không âm thanh (no sound) — và người Điếc được được miêu tả là một nhóm người bị mất và không có khả năng và thường được gọi là người bị khiếm thính (hearing impairment) hoặc có khuyết tật (disability). Mặc dù công dân được kỳ vọng phải hoàn thành nghĩa vụ với đất nước, hay "góp phần xây dựng xã hội" và "đóng góp cho xã hội, các đàm luận về người Điếc thường mô tả họ như những người thụ hưởng thay vì là chủ thể thực hiện những hành động trên.
Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của Trang trên truyền hình dưới vai trò là đại diện của những người Điếc sử dụng ký hiệu là rất đáng chú ý, được coi là một ví dụ về một hiện tượng mới nổi mà Rabinow gọi là 'sự kiện': sự xuất hiện làm dấy lên một vấn đề cần giải quyết, đó là cách thức phân loại, thực tiễn và sự vật" (2003, p. 67). Trong trường hợp lễ kỷ niệm "310 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai", thì 'sự kiện' chính đó là sự hiện diện trong xã hội của không chỉ một người Điếc sử dụng ký hiệu riêng lẻ mà còn là một người Điếc có những năng lực để đóng góp cho sự phồn thịnh của đất nước dưới tư cách của một công dân.
Chương trình được dàn dựng dưới hình thức một cuộc trao đổi (talk-show), trong đó người dẫn chương trình phỏng vấn 4 khách mời bằng ngôn ngữ nói tiếng Việt. Các khách mời sẽ tham gia bình luận về các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của họ và những cơ hội giúp họ vượt qua khó khăn để đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng của đất nước.7 Phần chia sẻ của Trang tập trung vào những khó khăn khi học tập tại trường khi cô và các bạn cùng trang lứa khác không được phép sử dụng ngôn ngữ ký hiệu TP.Hồ Chí Minh. Khi một trong những đồng phụ trách của DAGD dịch phần chia sẻ của Trang sang tiếng Việt, Trang phác họa nên hình ảnh một con đường theo hướng cường điệu, rất giống con đường của những khách mời khác; tuy nhiên, thay vì tập trung vào hoàn cảnh gia đình hay lịch sử, Trang gán từ 'khó khăn' với việc các cơ quan thể chế không chấp nhận NNKH TP.HCM và 'vượt qua khó khăn' với lời hứa đưa NNKH TP.HCM thành ngôn ngữ giảng dạy chính thức. Quan điểm này phản ánh sự thay đổi cách nhìn nhận về khuyết tật của những người vận động về khuyết tật Việt Nam đương đại, theo hướng chuyển từ cách nhìn khuyết tật là một mối quan ngại của gia đình/cá nhân sang góc nhìn xoay quanh những rào cản về xã hội/thể chế, chuyển từ vượt qua khó khăn sang vượt qua rào cản xã hội.8 Nhờ được học lên đại học bằng NNKH TP.HCM, Trang nói rằng cô hy vọng một ngày nào đó sẽ trở thành giáo viên, dạy học sinh Điếc bằng ngôn ngữ bằng ký hiệu.
Chia sẻ về trải nghiệm sống thực tế của cô và các bạn cùng trang lứa, Trang định hình bản chất của việc giáo dục cho người Điếc bằng cách ngầm đánh giá những điều kiện họ đang gặp phải khi cố gằng hoàn thành nghĩa vụ công dân thông qua giáo dục. Trang không nhắm đến một trường chuyên biệt cụ thể nào; thay vào đó, cô đề cập đến việc mở rộng một cách có hệ thống sự tham gia của công dân (citizenship participation) thông qua ngôn ngữ nói tiếng Việt và các ý tưởng mang tính quy chuẩn về việc công dân phải có khả năng làm gì và đạt được gì với khả năng đó. Phần phát biểu của Trang cũng đề cập đến quyền công dân, trong đó cô trình bày một góc nhìn về xã hội Việt Nam mà góc nhìn không được phản ánh trong những trật tự về xã hội, chính trị hoặc thể chế trên phạm vi rộng lớn hơn. Từ đó, Trang đưa ra một yêu cầu chính trị xã hội: NNKH TP.HCM nên được coi là một ngôn ngữ chính thống và là ngôn ngữ chính thống khi giáo dục cho người Điếc ở miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, Trang còn nhấn mạnh ý tưởng NNKH TP.HCM có thể - ngầm hiểu là nên - được giáo viên Điếc và không Điếc sử dụng trong các trường giáo dục cho người Điếc và các nơi khác ngoài cộng đồng. Cuốn sách này nhấn mạnh những thay đổi về thái độ của xã hội về người Điếc và NNKH TP.HCM, cũng như những thay đổi trong việc phân bố những tài nguyên xã hội và quyền lực liên quan đến ngôn ngữ, từ đó chỉ ra rằng những yêu cầu này xuất phát từ những thực hành ngôn ngữ bằng ký hiệu được nhiều người sử dụng và chúng có thể đóng góp vào quá trình hình thành cấu trúc chính trị xã hội (chẳng hạn như thể chế hóa các thực hành NNKH TP.HCM). Cuốn sách này cũng tập trung nghiên cứu sự mâu thuẫn giữa việc tham gia và đóng góp cho xã hội, khởi nguồn từ những thực hành ngôn ngữ bằng ký hiệu được nhiều người sử dụng và những thực hành ngôn ngữ được hoạch định dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Những mâu thuẫn này xuất hiện trong những báo cáo trước và sau khi Trang xuất hiện trên truyền hình, khi tình trạng bị khiếm thính [chỉ trạng thái bệnh tật/kém may mắn + hỏng thính giác] trở thành vấn đề được công chúng quan tâm nhất trong các câu chuyện xoay quanh người Điếc. Bằng việc có vẻ như đề cập đến những thành tựu của người Điếc, việc gắn những yếu tố tiêu cực với các ngôn ngữ và cơ thể cũng có những tác động ngầm đến tư cách công dân, đặc biệt là khi những nguồn truyền thông đại chúng chỉ cho phép một số hình thức thông tin nhất định.
Trong khoảng thời gian từ khi Trang xuất hiện trên chương trình "310 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai" đến khi tôi viết cuốn sách này, sự tham gia vào xã hội của người Điếc dựa trên ngôn ngữ bằng ký hiệu của người Điếc ngày càng được chú ý hơn. Dưới đây là một số ví dụ cho thấy sự đa dạng và chiều sâu của những hoạt động này: Báo chí và truyền hình thường xuyên phát hành ấn bản và phát sóng những câu chuyện về các hoạt động của cộng đồng người Điếc thu hút sự quan tâm của công chúng, chẳng hạn như các lớp ngôn ngữ bằng ký hiệu, hoạt động tình nguyện xã hội của cộng đồng người Điếc, và các buổi giao lưu của cộng đồng. Ngoài ra, năm 2010, Luật Người Khuyết tật đã công nhận quyền sử dụng ngôn ngữ ký hiệu trong giáo dục. Năm 2012 và 2013, chương trình dạy ngôn ngữ bằng ký hiệu do người Điếc dạy đã được phát sóng hàng tuần trên tivi. Tháng 2/2015, Việt Nam phê chuẩn Công ước về Quyền của Người Khuyết tật (CRPD) và chấp thuận Nghị định thư. Điều này nghĩa là Việt Nam đồng ý tuân theo các chuẩn mực quốc tế và triển khai các biện pháp để cung cấp tiếp cận các ngôn ngữ bằng ký hiệu do nhà nước hỗ trợ.9 Mặc dù chính sách của Việt Nam đối với ngôn ngữ ký hiệu đã có những thay đổi theo thời gian, nhưng sự hiện diện hay vắng bóng của ngôn ngữ ký hiệu ở trường học và các địa điểm xã hội khác cần được làm rõ, đặc biệt là vị thế ngôn ngữ của NNKH Việt Nam và sự thay đổi về cách nhìn nhận của con người và sự chấp nhận của xã hội đối với vị thế ngôn ngữ này.
Cuốn sách này nghiên cứu các mối quan hệ giữa các thực hành ngôn ngữ, các hệ tư tưởng, chính sách và chương trình hoạt động, giảng dạy ở những địa điểm giáo dục cho người Điếc và các địa điểm tổ chức hoạt động của cộng đồng người Điếc tại Tp.Hồ chí Minh và khu vực lân cận. Khi nghiên cứu những yếu tố định hình nên hoặc được định hình bởi những mối quan hệ này, tôi tập trung vào những khía cạnh về dân tộc ký và ngôn ngữ của việc hình thành cơ cấu chính trị xã hội, nhất là trong mối tương quan với nhà nước định hướng phát triển và hiện đại hóa. Lập luận chính của tôi dựa trên ba luận điểmT hứ nhất, cơ cấu giáo dục phản ánh những hệ tư tưởng về ngôn ngữ ký hiệu và về người Điếc dưới góc độ một nhóm chủ thể, từ đó tạo điều kiện cho các hình thức hòa nhập hoặc loại trừ trong thời điểm đương đại. Thứ hai, những phản hồi của người Điếc đối với cơ cấu giáo dục và các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội khác - có liên quan đến các hành động xã hội mà NNKH TP.HCM là trọng tâm, từ đó góp phần hình thành cơ cấu chính trị xã hội giữa những người Điếc và giữa người Điếc và người không Điếc. Thứ ba, hành động xã hội dựa trên ngôn ngữ bằng ký hiệu này đóng góp như thế nào vào sự chuyển dịch chính trị xã hội trên diện rộng tại Việt Nam. Cuối cùng, tôi lập luận rằng những đánh giá khác nhau về NNKH TP.HCM và những quan điểm về năng lực xã hội của người Điếc đã và đang phản ánh và phản hồi lại những mối quan ngại về những hạn chế về tư cách công dân (có thay đổi theo thời gian) dưới chế độ chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị trường đương đại, cụ thể là những hạn chế có liên quan đến những đòi hỏi ngày cành gia tăng từ nhà nước định hướng phát triển. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những cách hiểu hay lập trường khác nhau về "ngôn ngữ ký hiệu" bị tác động mạnh bởi các hệ tư tưởng ngôn ngữ, trong đó kết nối ngôn ngữ (và các tình thái ngôn ngữ) với những cách thức tham gia xây dựng đất nước đã được lý tưởng hóa.
Khi mô tả hoàn cảnh của các nhóm người Điếc trong bối cảnh hậu thuộc địa và chủ nghĩa xã hội theo cơ thế thị trường ở Đông Nam Á, nghiên cứu này phân tích những quan điểm chưa được nghiên cứu hoặc đề cập đầy đủ trong lĩnh vực giáo dục cho người Điếc, nghiên cứu về Điếc, ngôn ngữ học về ngôn ngữ bằng ký hiệu, hoặc các nghiên cứu về nhân học. Từ phân tích này, tôi hướng đến việc mở rộng phạm vi nghiên cứu nhân học, lấy ngôn ngữ là trọng tâm bằng cách cho thấy những luận đề dựa trên ngôn ngữ bằng ký hiệu (signed language–based claim) đóng góp như thế nào vào việc đánh giá sự hình thành và thay đổi về chính trị xã hội. Theo đó, tôi không có ý rằng chỉ Nhà nước mới có quyền hình thành nên các hình thái chính trị xã hội. Trái lại, trong những chương này tôi chỉ ra những cách thức mà những hành động xã hội của người Điếc và NNKH TP.HCM có thể tham gia vào việc định hình cách thức hoạt động của các cơ quan nhà nước và thể chế (state-institutional practices). Phần mô tả về sự xuất hiện của Trang trên truyền hình ở đầu chương này cũng mở ra một đường hướng tiềm năng: khán giả theo dõi phần trình diễn và lắng nghe quan điểm của người Điếc sử dụng ký hiệu, bao gồm cả những nhận xét thường không được nhắc đến trong những phát biểu chính thống.
Giáo dục cho người Điếc và tổ chức cộng đồng cho người Điếc tại Việt Nam: Những địa điểm hình thành cơ cấu chính trị xã hội
Giáo dục chính quy cho học sinh Điếc ở Việt Nam bắt đầu năm 1886 dưới thời thuộc Pháp với sự thành lập của Trường Câm-Điếc Lái Thiêu ở tỉnh Bình Dương, phía bắc Tp. Hồ Chí Minh ngày nay. Lái Thiêu là trường duy nhất dạy trẻ Điếc ở Việt Nam, cho đến tận thời chiến tranh chống Mỹ khi chính phủ thành lập hai trường ở miền Bắc, các bố mẹ và những bố mẹ-trở thành-thầy cô giáo đã phối hợp để thành lập thêm các trường khác ở miền Nam. Tuy nhiên, chỉ đến khi công cuộc Đổi mới 1986 bắt đầu, nhà nước mới thống nhất một cách tiếp cận quốc gia về giáo dục cho người Điếc đó là dựa trên lời nói (speech based). Với mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa, nhà nước đã coi giáo dục là nền tảng của công cuộc Đổi mới và là chính sách quan trọng hàng đầu quốc gia, với vai trò chính là giáo dục toàn dân biết tiếng Việt nói và viết/in (Phạm, 2007, pp. 282–283). Luật Người Khuyết tật 201010 được ban hành đã chính thức chấm dứt thời kỳ giáo dục cho người Điếc dựa trên lời nói trước đây, theo đó học sinh có quyền sử dụng "ngôn ngữ ký hiệu" ở trường; tuy nhiên, việc giáo viên không được đào tạo sử dụng 3 phương ngữ ký hiệu tiếng Việt (NNKH Việt Nam) tiếp tục hạn chế sự tương tác giữa giáo viên và học sinh và việc tiếp cận nội dung giáo dục.11 Không những vậy, số lượng trường học cũng không đủ cho hơn 400.000 thanh thiếu niên Điếc hoặc nghe kém đang ở độ tuổi đến trường, và các chương trình giáo dục ở hầu hết các trường hiện có chỉ có đến lớp 5 hoặc lớp 9 (tuỳ theo từng trường) (TCTK, 2009, cf.GSO 2006 do các số liệu báo cáo cao hơn gấp đôi so với số liệu trong GSO 2009).
Tư tưởng ngôn ngữ, Trường chuyên biệt, và Hành động của những nhà tổ chức xã hội cho người Điếc
Nhấn mạnh tầm quan trọng của ngôn ngữ tiếng Việt đối với sự phát triển xã hội và con người đối với người Điếc, cũng như vai trò của họ đối với tương lai của Việt Nam, Cách tiếp cận này đã khiến tỷ lệ học sinh nhập học tăng lên, nhưng những thất bại trong giáo dục cũng lớn hơn khi học sinh thường mất hai đến ba năm mới hoàn thành chương trình học của một năm. Mặc dù học sinh Điếc không hiểu được lời của giáo viên hoặc không thể giải mã trực quan (chẳng hạn như đọc khẩu hình) hệ thống âm sắc của tiếng Việt và một số hiệu trưởng và giáo viên các trường chuyên biệt đã bắt đầu học ký hiệu từ học sinh, tuy nhiên, do tin rằng học sinh bị khiếm khuyết ngôn ngữ và trí tuệ nên đã ra ký hiệu sai, giáo viên đã áp đặt trật từ tự tiếng Việt lên ký hiệu họ đã học và yêu cầu học sinh phải ra ký hiệu theo cách này. Như phân tích trong Chương 3 và Chương 4, học sinh nghe lời giáo viên nên đã cố gắng nói tiếng Việt và ra ký hiệu theo trật từ tự tiếng Việt; tuy nhiên, khi không ở trong tầm quan sát trực tiếp của thầy cô giáo (nhưng thường là vẫn trong tầm quan sát), các học sinh ra ký hiệu theo cách các em quy ước với nhau và với những người Điếc trưởng thành mà các em có tiếp xúc. Những yêu cầu về ngôn ngữ tại trường chuyên biệt cũng được áp dụng tại gia đình, ban giám hiệu và giáo viên khuyến khích gia đình chỉ nói chuyện với trẻ em Điếc và tránh dùng ký hiệu.
Quá trình học tập đầu đời của Trang là một ví dụ. Khi bắt đầu đi học, Trang được chọn học tại các trường chuyên biệt ở Hồ Chí Minh, trường hòa nhập (tức là không có các bạn học Điếc và không dùng ngôn ngữ bằng ký hiệu), hoặc một trong số những trường chuyên biệt khác có các bạn học Điếc nhưng không được dùng ngôn ngữ bằng ký hiệu. Trang và gia đình đã chọn trường cuối cùng. Tại trường này (gọi là trường Hy vọng C trong chương 1), hiệu trưởng yêu cầu các giáo viên và học sinh nói tiếng Việt và không khuyến khích gia đình dùng ký hiệu với học sinh tại nhà. Kết quả học tập của Trang khá khiêm tốn và cũng bị chậm hơn do các giáo viên và bạn học khác không nói cùng một ngôn ngữ trong lớp học. Kết quả là Trang mất gần 10 năm để học hết lớp 5 và đến năm 16 tuổi mới học xong. Ở nhà, việc giao tiếp với gia đình cũng bị hạn chế do không có một ngôn ngữ chung. Bố mẹ và anh chị em của Trang không dùng ký hiệu (đến tận bây giờ) mà Trang thì không nói được; không những vậy, do những trải nghiệm ở trường mà lúc đó cô không tự tin viết bằng chữ quốc ngữ cho gia đình đọc. Những trải nghiệm như của Trang, cùng với những quy định về ngôn ngữ và tác động của chúng, là điều mà các tổ chức xã hội cho người Điếc Việt Nam tập trung hướng đến khi nhận xét về cơ cấu tổ chức và những quy định về ngôn ngữ của các trường chuyên biệt; những vấn đề này cũng gặp phải ở những địa điểm khác như trung tâm dạy nghề và nơi làm việc.
Cuối thập niên 90, người Điếc bắt đầu tập hợp lại để giải quyết những mối quan tâm về giáo dục và đào tạo của người Điếc và cũng để giải quyết tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội đang ngày càng phổ biến hơn liên quan đến việc sử dụng các NNKH Việt Nam. Năm 2000, những nỗ lực này được đẩy mạnh hơn nữa khi DAGD ra đời. Đây là chương trình được quốc tế hỗ trợ nhằm cải tiến việc dạy chương trình giáo dục quốc gia bằng NNKH TP.HCM.12 Với sự hỗ trợ của các mạng lưới và hội người Điếc, DAGD đã thu hút học sinh Điếc từ mọi miền Việt Nam đến học theo chương trình cấp 3 và sau đó là cấp cao đẳng và đại học. Tại thời điểm tôi viết cuốn sách này, DAGD vẫn là chương trình duy nhất giảng dạy bằng NNKH TP.HCM mà người Điếc có thể học đến cấp 3 và cao hơn nữa. DAGD là chương trình giáo dục duy nhất dạy học sinh sử dụng ngôn ngữ bằng ký hiệu và giảng dạy bằng NNKH TP.HCM. Do đó, chương trình này cũng là nơi chủ yếu (và duy nhất cho đến gần đây) nâng cao năng lực cho các dự án định hướng ngôn ngữ của người Điếc.
Từ nửa sau thập niên 2000, các hoạt động tổ chức cộng đồng cho người Điếc đã tăng đáng kể, một phần nhờ giáo dục phổ thông và đào tạo ngôn ngữ bằng ký hiệu thông qua DAGD, cũng như quan hệ đối tác giữa các tổ chức cộng đồng người Điếc và các đối tác trong và ngoài nước ủng hộ nghiên cứu và đào tạo về ngôn ngữ bằng ký hiệu. Các tổ chức người Điếc trên toàn quốc đã thành lập một mạng lưới quốc gia và đã được chính thức công nhận là hiệp hội quốc gia, như hàng ngàn các tổ chức cộng đồng khác được công nhận chính thức tại Việt Nam (Norlund, 2007). Tuy nhiên, tại thời điểm viết cuốn sách này, nhà nước vẫn chưa công nhận các tổ chức cộng đồng người Điếc có tư cách pháp nhân. Điều đó đồng nghĩa với việc người sáng lập của các tổ chức trên khắp cả nước vẫn phải tiếp tục gia tăng số lượng thành viên và nâng cao năng lực cho tổ chức của mình.13 Họ cũng góp phần phát triển xã hội bằng cách tổ chức các sự kiện để những gia đình có và không có người Điếc và các thành viên trong cộng đồng giao lưu với nhau bằng các NNKH Việt Nam. Bên cạnh đó, họ còn tổ chức các dự án hướng đến chủ đề quyền công dân. Bối cảnh giáo dục và tổ chức cộng đồng giúp người Điếc có cơ hội tham gia vào các trao đổi về điều kiện xã hội họ gặp phải và cùng nhau giải quyết. Chương 3 và Chương 5 đã chỉ ra rằng những hoạt động này đã tạo ra những thay đổi trọng yếu trong cộng đồng người Điếc cũng như trong xã hội.
Giáo dục dưới góc độ sự tham gia của công dân: Thông thạo ngôn ngữ bằng ký hiệu và quyền tự quyết
Trên toàn thế giới, các dự án giáo dục cho người Điếc thường gặp những ý kiến trái chiều và được ghi lại trong những nghiên cứu về Điếc, giáo dục cho người Điếc và tài liệu ngôn ngữ học về ngôn ngữ bằng ký hiệu. Các học thuyết về ngôn ngữ sử dụng miệng (hay dựa trên lời nói) và cử chỉ (hay dựa trên ký hiệu), những thành tố của tình trạng Điếc định hướng theo vấn đề, tiếp thu ngôn ngữ và thông thạo đọc viết là những chủ đề chính được tranh luận về hoạch định ngôn ngữ (language planning) trong hàng trăm năm nay. Chương 2 đưa ra những phân tích sâu sắc về bối cảnh lịch sử và di sản của các cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa lời nói (oralism) và chủ nghĩa cử chỉ (manualism). Một cách ngắn gọn, trong các cuộc tranh luận này, những người có kiến thức chuyên môn thường ưu tiên các ngôn ngữ nói thống trị, từ đó đưa ra các khuyến nghị về việc sử dụng ngôn ngữ khi giảng dạy và kết nối đến các lập luận về việc là một thành viên và đóng góp có ích cho xã hội và quốc gia (Branson và Miller, 2007, 2008; Lane, 1989; Reagan, 2010; xem thêm Tollefson, 2008, để tìm hiểu thêm về góc nhìn từ các ngôn ngữ nói thiểu số). Davis (1995) đã nhận diện được sự xuất hiện của các khái niệm về sự khác biệt về tư tưởng và biểu hiện ngôn ngữ, cùng với sự gia tăng các đàm luận về chủ nghĩa dân tộc ở thế kỷ 19 và những nhận xét chuyên môn về Điếc (expert rhetoric on deafness) (xem Branson và Miller, 2002).14 Nếu nói theo quan điểm rằng những người-có-năng-lực (able-bodies) tạo nên một quốc gia có năng lực (able nation), thì một công dân có năng lực là một công dân có thể nói một cách chuẩn mực, một người có thể thực hiện tư cách công dân bằng cách tạo ra ngôn ngữ quốc gia. Các ngôn ngữ bằng ký hiệu từ trước đến giờ chủ yếu được coi là công cụ và là biện pháp để hỗ trợ hoặc cản trở các mục tiêu giáo dục và mục tiêu quốc gia chứ hiếm khi được nhìn nhận dựa trên đặc điểm riêng của chúng.
Các thực hành ngôn ngữ ở các cơ sở giáo dục cho người Điếc và các tổ chức cộng đồng người Điếc ở Việt Nam đặt quyền công dân trong bối cảnh có những di sản của Nho giáo và tư tưởng Mác - Lê-nin, cả hai yếu tố này đều góp phần tạo nên bản chất thứ bậc của các mối quan hệ nhà nước - xã hội (Porter, 1993; Tai, Năm 1992). Tại Việt Nam, sau khi dành được độc lập, giáo dục công dân là môn học bắt buộc từ lớp 6 đến lớp 12, môn chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng là môn bắt buộc trong tất cả các chương trình giáo dục đại học. Như đã đề cập phía trên, trong thời kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường, công dân được kỳ vọng phải hoàn thành nghĩa vụ với đất nước, hay "góp phần" (paritcipate in) và "đóng góp cho xã hội" (contribute to society). Trong Chương 4, tôi thảo luận về mô tả của Reis (2013) về công dân tích cựci> và biểu hiện của nó thông qua các mối quan hệ thứ bậc ở Việt Nam và áp dụng khái niệm đó để xem xét các hình thức thực hành quyền công dân của người Điếc tại ba địa điểm chính tôi tiến hành nghiên cứu dân tộc ký này.
Dữ liệu từ ba địa điểm này cho thấy rằng, mặc dù bộ máy nhà nước có một cơ chế hình thành và điều tiết hệ tư tưởng theo một xu hướng nhất định, nhưng nhà nước vẫn không thể quyết định suy nghĩ hay hành động của người dân bởi chúng mang tính chất cá biệt dựa trên những trải nghiệm của cá nhân hoặc địa vị xã hội. Bằng cách chia sẻ ngôn ngữ và trải nghiệm với nhau, các nhóm thành phần có thể tương tác để hình thành những hiểu biết chung về hoàn cảnh của họ với tư cách là chủ thể thuộc và liên quan đến hệ thống chính trị xã hội nhất định và quá trình biến đổi liên tục của hệ thống này. Quá trình phân tích bộ dữ liệu hiện tại cho thấy cách thức quản trị nhà nước và hành động xã hội của người Điếc Việt Nam phản ánh các hình thức tổ chức chính trị xã hội khác nhau nhưng có liên quan đến nhau, đồng thời đặt ra các câu hỏi sau: Những lực lượng nào đang thúc đẩy các cơ chế dựa trên lời nói (speech-based regime) và dựa trên ký hiệu (sign-based regime) trong lĩnh vực giáo dục người Điếc đương đại? Những công dân Điếc và các tổ chức nhà nước đóng những vai trò trong việc kết nối hoặc tạo ra khoảng cách giữa các NNKH Việt Nam với các cơ quan của nhà nước? Và những hành động xã hội của người Điếc phù hợp hoặc không phù hợp với những cách thức thực hành quyền công dân được nhà nước cho phép như thế nào?
Ý nghĩa của sự chủ động tham gia và đóng góp
Nhà nước Việt Nam coi giáo dục là phương tiện chính để đảm bảo sự phát triển kinh tế quốc gia và đặt việc thông thạo tiếng Việt là nền tảng của nền giáo dục. Các nhận định về ngôn ngữ thiểu số đều cho rằng chúng làm phức tạp thêm các mục tiêu phát triển quốc gia và các phương thức tham gia đã được thiết lập. Tuy nhiên, các phương pháp tiếp cận của nhà nước đối với giáo dục cho người Điếc và tổ chức dựa vào cộng đồng của người Điếc từ năm 2000 đến năm 2016 đã cho phép triển khai các hoạt động phổ biến rộng rãi ngôn ngữ ký hiệu —điều này minh chứng cho điều mà một số học giả Việt Nam gọi là “thay đổi từ bên trong” (Wischermann, 2011; xem Fforde, 2011 và Thayer, 2009). Việc đáp ứng các lợi ích liên quan đến ngôn ngữ ký hiệu của nhà nước Việt Nam cho thấy Nhà nước đã “nhạy cảm với việc thay đổi các định nghĩa về chính trị” (“sensitive to changing definitions of the political”) (Faulks, 2006, trang 65). Các thuật ngữ về sự nhạy cảm này và các tác động liên quan sẽ được trình bày xuyên suốt cuốn sách này.
Các thảo luận về bản chất của ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội và chính trị đang thay đổi này đang tạo ra hàng loạt tranh luận về tình thái và cách sử dụng ngôn ngữ cũng như các chương trình nghị sự liên quan. Các cách thức mà các khái niệm chuẩn tắc về ngôn ngữ và hình thể tương tác với nhau trong ngữ cảnh Việt Nam cũng được thảo luận xuyên suốt cuốn sách này, đặc biệt là về việc sử dụng NNKH TP.HCM. Người Điếc ở Việt Nam thường phải chịu quan niệm rằng cơ thể và trí tuệ của họ là “khuyết tật”. Họ cũng phải đối mặt với những giả định về giới tính và tình dục nhất định. Wischermann lập luận rằng “các phạm trù phân tích giới không chỉ là trọng tâm trong các phân tích về nhà nước, thị trường và gia đình, mà còn trong các phân tích về hành động xã hội của công dân [Citizen Social Action - CSA]” (2011, trang 389; xem thêm Howell, 2007, trang 427). Trong cuốn sách này, việc sử dụng ngôn ngữ bằng ký hiệu được xem là một trong những yếu tố ảnh hưởng bởi giới tính và tính dục, dựa trên các địa điểm tương tác cụ thể giữa người Điếc và người không Điếc và giữa các hình thức kỷ luật đã được thể chế hóa và cơ quan thi hành.
Về khía cạnh ngôn ngôn ngữ, những kỳ vọng về sự tham gia của công dân tại Việt Nam có xu hướng tách biệt giữa các thực hành nghe-nói và nhìn-ký hiệu, cụ thể là nhóm nghe-nói được kỳ vọng sẽ đóng vai trò chủ động còn nhóm nhìn-ký hiệu đóng vai trò bị động. Cuốn sách này cũng phân tích sâu về những khác biệt giữa hai hình thức ra ký hiệu ở Tp.HCM: Cách thứ nhất tuân theo ngữ pháp của NNKH TP.HCM, cách còn lại tuân theo trật từ tự tiếng Việt. Người Điếc gắn từng cách ra ký hiệu trên với những liên hệ văn hóa đặc trưng, bản sắc xã hội và mối quan tâm khác nhau: NNKH TP.HCM được mô tả là một hình thái ngôn ngữ sử dụng bởi những người thừa nhận bản sắc 'Điếc' và văn hóa Việt;15 và họ mong muốn tham gia và đóng góp cho xã hội thông qua việc sử dụng NNKH TP.HCM. Trái lại, việc ra ký hiệu theo trật từ tự tiếng Việt được (những người sử dụng NNKH TP.HCM) mô tả là một hình thái ngôn ngữ sử dụng bởi những người tự xác định mình là người khiếm thính hoặc khuyết tật và mong muốn tham gia xã hội thông qua các thực hành tiếng Việt. Việc ra ký hiệu theo trật từ tự tiếng Việt cũng phù hợp với mục tiêu của Bộ GD&ĐT nhằm chuẩn hóa các phương ngữ NNKH Việt Nam khác nhau tại Việt Nam (Woodward, 2003) cũng như khái niệm về khiếm thính của Bộ GD&ĐT (Chương 3 đến Chương 6 thảo luận sâu sắc về những yếu tố lịch sử và xã hội đến những phương ngữ ký hiệu này, các hệ tư tưởng ngôn ngữ bằng ký hiệu và các bản sắc tại miền Nam Việt Nam). 16 Trong cuốn sách này, phần mô tả về hành động xã hội của người Điếc Việt Nam tập trung vào các khía cạnh ngôn ngữ học xã hội của những người sử dụng NNKH TP.HCM.
Cách thức những người tổ chức xã hội cho người Điếc sử dụng NNKH TP.HCM để đáp ứng những thị trường ngách mới dựa trên ngôn ngữ bằng ký hiệu làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của sự tham gia và đóng góp của công dân. Chẳng hạn như năm 2008, nhà nước ban hành những quy định đầu tiên về miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp tuyển dụng hoặc phục vụ người khuyết tật. Quy định này đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp liên quan đến khuyết tật. "Du lịch Khiếm thính" là một trong số những doanh nghiệp đầu tiên được thành lập như vậy. Chủ doanh nghiệp này là một người nghe ở thành phố Hồ Chí Minh, họ tuyển dụng hướng dẫn viên Điếc cho các tour du lịch sử dụng ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (ASL). Cũng trong giai đoạn này, những công ty du lịch do người Điếc làm chủ hoặc vận hành từ các nước khác cũng bắt đầu xuất hiện. Các nhà lãnh đạo xã hội của người Điếc xem cả hai hình thức du lịch này là sự xâm phạm chủ quyền văn hóa và ngôn ngữ, do đó họ đã phản ứng bằng cách yêu cầu gặp đại diện các công ty du lịch trong nước và quốc tế để khuyến khích thuê người Điếc Việt Nam thực hiện các tour du lịch bằng NNKH địa phương (Cooper, 2015). Những cách làm này phản ánh những trật tự văn hóa xã hội và chính trị-hành chính có thứ bậc mà các hoạt động tổ chức cộng đồng người Điếc chịu ảnh hưởng (Norlund, 2007). Không phê phán chính sách của nhà nước cũng như không đưa ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp liên quan, những người tổ chức cộng đồng người Điếc mà tôi quan sát đã tìm cách tạo ra những thay đổi trong các lĩnh vực thể chế nhà nước và kinh doanh bằng cách trực tiếp bày tỏ quan điểm của họ, cung cấp thông tin, khuyến khích và hỗ trợ.
Phương pháp nghiên cứu và Mối quan tâm về Đạo đức
Sự tham gia xã hội dựa trên việc phiên dịch NNKH
Khi bắt đầu nghiên cứu này, tôi mong muốn tập trung vào Ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh (NNKH TP.HCM) và các thực hành ngôn ngữ xã hội liên quan tại những địa điểm giáo dục cho người Điếc và tổ chức xã hội cho người Điếc. Theo phân tích của tôi, việc tổ chức xã hội cho người Điếc đương thời là để giải quyết tình trạng NNKH TP.HCM (và các ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam khác) không được coi trọng về mặt thể chế trong hệ thống các trường chuyên biệt cho người Điếc ở cấp quốc gia. Do đó, cần tiến hành phân tích chính trị xã hội trong những lĩnh vực này, đặc biệt là về khía cạnh quốc gia dân tộc, các hệ tư tưởng và giả tưởng của quốc gia đó, cũng như những điều kiện vật chất mà những cá nhân và nhóm người Điếc dựa vào để tăng cường sự tham gia và đóng góp cho xã hội thông qua việc sử dụng NNKH TP.HCM. Trong giai đoạn đầu tiên của công cuộc Đổi mới chính trị - xã hội, Nhà nước Việt Nam đã đặt mục tiêu giáo dục đào tạo mọi công dân để họ tham gia vào quá trình phát triển, hiện đại hóa và bảo vệ quốc gia có chủ quyền. Tương tự như cách tiếp cận dưới thời chống chủ nghĩa thực dân, những lãnh đạo ngành giáo dục khi chống giặc dốt trong công cuộc Đổi mới đã xác định khả năng đọc và viết tiếng Việt là đầu tàu thúc đẩy sự thống nhất, đoàn kết quốc gia và tiến bộ kinh tế.
Như đã nêu trong lời mở đầu của cuốn sách này, bối cảnh chính trị xã hội trong đó việc giáo dục cho người Điếc và tổ chức cộng đồng cho người Điếc đang chuyển mình nhanh chóng. Cuốn sách ra đời trong bối cảnh có sự chuyển biến trong nhiều lĩnh vực, trong đó bao gồm việc Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến việc công nhận ngôn ngữ, các lớp học NNKH Việt Nam dựa vào cộng đồng do nhà nước tài trợ và việc những hội người Điếc quốc gia sắp chính thức công nhận tới đây. Do đó, cuốn sách sẽ không thể đề cập hết những sự kiện mới xảy ra gần ngày xuất bản. Thay vào đó, cuốn sách tập trung vào những sự kiện xảy ra trong giai đoạn năm 2008 – 2014, đây là giai đoạn tôi cho rằng rất quan trọng để hiểu được bối cảnh hiện tại. Trong cuốn sách này, tôi sẽ nghiên cứu những sự kiện lịch sử chính để hiểu hơn cách người Điếc Việt Nam tiến hành hoạt động tổ chức xã hội hiện tại (Rabinow, 2003, p. 67).
Những tư liệu cho phần nội dung chính của cuốn sách được thu thập trong một năm tôi đi thực địa dân tộc ký trong giai đoạn 2008 - 2009 và các thành phố ở phía Nam gồm Hồ Chí Minh và Biên Hòa khi làm luận án tiến sỹ. Bộ dữ liệu thứ 2 thu thập từ một nghiên cứu dân tộc ký bổ sung kéo dài 5 tháng trong khoảng thời gian từ năm 2012 - 2014 khi tôi đến Việt Nam công tác dưới vai trò giảng viên quốc tế trong một dự án về giáo dục cho người Điếc.
Nền tảng ban đầu đưa tôi đến Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 6/2007 đó là phiên dịch, đây là nền tảng quan trọng cho phương pháp luận dân tộc ký của nghiên cứu này. Ban đầu tôi đến Việt Nam theo lời mời của giám đốc một dự án giáo dục cho người Điếc trưởng thành (sau đây tôi xin gọi là Dự án Giáo dục, viết tắt là DAGD). Ông mời tôi dạy tổng quan về phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu (NNKH) - ngôn ngữ nói cho các nhân viên dự án khi tôi đang ở Việt Nam tiến hành nghiên cứu thực địa sơ bộ. Vào thời điểm năm 2007, phiên dịch NNKH - ngôn ngữ nói hầu như chưa xuất hiện tại Việt Nam - tuy nhiên thực trạng này đã thay đổi đáng kể trong 9 năm vừa qua. Ngoài DAGD, không có trường, trung tâm đào tạo hay tổ chức nào tuyển dụng những người nói 2 ngôn ngữ để dịch thuật NNKH - ngôn ngữ nói. Ngoài ra, theo những báo cáo giai thoại thì thời đó cũng rất hiếm người sử dụng cả hai ngôn ngữ này. Trong khuôn khổ DAGD, các nhân viên phiên dịch NNKH - ngôn ngữ nói mà chưa có cơ hội học về lý thuyết hay phương pháp phiên dịch. Tuy nhiên, họ lại có một cơ hội đặc biệt đó là được tương tác với người Điếc hàng ngày và từ đó học NNKH TP.HCM và các quan điểm ngôn ngữ học xã hội của người Điếc. Đây là những kiến thức nền tảng cho quá trình phiên dịch, trong đó phiên dịch viên tái tạo lại các nghĩa với những người tương tác trong 2 ngôn ngữ, dựa trên việc hiểu các hình thái tương ứng của ngôn ngữ, kinh nghiệm và giá trị của cả hai nhóm.17 Với phiên dịch NNKH - ngôn ngữ nói, những hiểu biết này bao gồm việc hiểu được những quan điểm (cả đúng và sai) về người Điếc và NNKH, có kiến thức về cơ cấu thể chế chính thức liên quan đến những cơ hội của người Điếc (và thường có sự phân tầng xã hội), những cách xử lý ưa thích khác nhau của người Điếc khi giải quyết những hoàn cảnh họ gặp phải, và những chiêm nghiệm sâu sắc về những đặc quyền của chính mình khi là thành viên của nhóm đa số sử dụng ngôn ngữ nói (nếu phiên dịch viên là người nói) hay là người sử dụng song ngữ trong đó NNKH là bản ngữ (nếu phiên dịch viên là người Điếc).
Trước khi đến Việt Nam, tôi làm phiên dịch viên NNKH Mỹ - tiếng Anh tại cộng đồng trong suốt 15 năm và đã học ngành nhân học để phân tích ngôn ngữ và các vấn đề về quyền lực phát sinh trong công việc này. Kinh nghiệm và nền tảng học vấn này đã định hình cách tiếp cận của tôi khi chuẩn bị giảng dạy cho các nhân viên DAGD năm 2007 và các câu hỏi mà tôi muốn khám phá trên phương diện dân tộc ký. Điểm cốt lõi của cả hai công việc đó là sự chú trọng đến việc tham gia xã hội của người Điếc dựa trên nền tảng NNKH và vai trò của người nghe trong việc thúc đẩy hay hạn chế sự tham gia của người Điếc, cả trên phương diện tương tác giữa các cá nhân (liên nhân) và phương diện thể chế. Khi suy ngẫm về sự tham gia trong bối cảnh phiên dịch NNKH - ngôn ngữ nói, tôi đã có một số câu hỏi sau:
• Người Điếc và người nghe tại Việt Nam thường tương tác theo những cách thức nào - ở nhà, trường học và các địa điểm khác?
• Những người Điếc và người nghe có những cách thức giao tiếp (hay các thực hành ngôn ngữ) nào tại những địa điểm này, và những thực hành này được nhìn nhận như thế nào?
• Người Điếc Việt Nam nhìn nhận các mối quan hệ xã hội giữa họ với người Điếc khác và người nghe như thế nào? Những nhận thức và quan hệ này tác động đến cách tiếp cận của người Điếc đối với các dự án xã hội cụ thể như thế nào?
Những phát hiện sơ bộ đã thúc đẩy tôi tiến hành nghiên cứu thực địa vào năm 2008 và 2009 tại 3 loại địa điểm: (1) các lớp học và phòng hành chính của DAGD; (2) các lớp học và phòng hành chính của 5 trường chuyên biệt cho học sinh Điếc; và (3) Chi hội người Điếc thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh 3 địa điểm nghiên cứu chính trên, tôi cũng phỏng vấn cán bộ từ các bộ ngành khác nhau và những thành viên người nghe trong gia đình có người Điếc, tham dự các sự kiện liên quan đến khuyết tật mà người Điếc tham dự, đến thăm các công ty và tổ chức tạo việc làm hoặc cung cấp dịch vụ cho người Điếc, khảo sát các học sinh sử dụng NNKH TP.HCM và theo dõi sự xuất hiện của người Điếc trên truyền hình và báo in. Tôi cũng có thêm hiểu biết khi tham gia trình bày tại Hội thảo "Sống chung với mất thính lực" do một tổ chức cộng đồng điều hành bởi và vì người khuyết tật tổ chức, tiếp tục hợp tác đào tạo phiên dịch cho DAGD tại các văn phòng của họ, và hợp tác với DAGD và Câu lạc bộ Văn hóa người Điếc tổ chức hội thảo đào tạo phiên dịch viên cho các nhân sự trường chuyên biệt.
Sau khi hoàn thành chương trình tiến sỹ, tôi đã tham gia một nhóm các chuyên gia tập huấn và nghiên cứu giáo dục quốc tế thuộc trường Đại học Gallaudet University ở Washington, DC để tư vấn miễn phí cho Tổ chức Quan tâm Thế giới (WCDO) khi họ chuẩn bị khởi động dự án đào tạo ngôn ngữ và giáo dục trước tuổi đến trường tại Việt Nam (Dự án Giáo dục trẻ Điếc trước tuổi đến trường, sau đây gọi là dự án IDEO). Năm 2012, WCDO mời tôi làm giảng viên quốc tế cho dự án này. Nhiệm vụ chính của tôi là đào tạo những học viên là người nghe để hỗ trợ giao tiếp giữa những cố vấn là người Điếc và các thành viên trong gia đình trong các buổi giáo dục trước tuổi đến trường với trẻ em Điếc. Các học viên rất ít tiếp xúc với NNKH Việt Nam nhưng đã thể hiện trong các buổi sàng lọc học viên rằng họ sẵn sàng học và sử dụng NNKH Việt Nam để thúc đẩy giao tiếp trong gia đình và chuẩn bị cho trẻ em Điếc sẵn sàng đến trường. Theo đó, chương trình tập huấn cho các phiên dịch viên giàu khát vọng này tập trung vào các kỹ năng tiền phiên dịch và các thực hành giao tiếp ngoài ngôn ngữ giúp tăng cường sự tham gia của các thành viên trong gia đình vào việc thiết lập và duy trì sự chú ý của các cố vấn người Điếc và trẻ em Điếc. Trong hoạt động này, tôi đã đến Việt Nam 4 lần trong giai đoạn từ tháng 12/2012 đến tháng 8/2014. Mỗi chuyến kéo dài từ 4 đến 6 tuần, trong đó có 2-3 tuần tập huấn và sau đó tôi thực hiện các hoạt động nghiên cứu.
Dự án IDEO của WCDO đã giúp nhóm tập huấn tiếp cận được với những lãnh đạo ra quyết định cao nhất trong lĩnh vực quản lý và nghiên cứu giáo dục chuyên biệt Việt Nam. Ngoài ra, nhóm dự án cũng làm việc với 70 nhà lãnh đạo cộng đồng người Điếc từ 4 tỉnh thuộc miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam; 50 người nghe mong muốn học và mở rộng việc sử dụng NNKH Việt Nam; và khoảng 150 gia đình người nghe có trẻ em Điếc. Mặc dù tôi không nghiên cứu những hoạt động tập huấn này nhưng những tương tác trong hoạt động đã giúp tôi hiểu sâu thêm về quan điểm và mối quan tâm của những nhà lãnh đạo cộng đồng người Điếc, của những phiên dịch viên giàu khát vọng, gia đình của trẻ em Điếc, các lãnh đạo ngành giáo dục quốc gia và của những người làm trong lĩnh vực phát triển quốc tế.
Khi chúng tôi thực hiện các hoạt động khác nhau (từ đó tôi thu thập được 2 bộ dữ liệu cho nghiên cứu này), việc phiên dịch và biên dịch cũng đóng vai trò nhất định trong mọi tương tác, và thường là khi trao đổi cởi mở về những vấn đề đa ngôn ngữ và đa văn hóa. Tôi cũng đề cập đến những trao đổi và quan điểm về việc dịch thuật này khi phân tích; tuy nhiên tôi vẫn là người chịu trách nhiệm đưa ra những kết luận nêu trong cuốn sách.
Phương pháp nghiên cứu và các mối quan tâm về đạo đức
Tôi quan sát những người tham gia trong DAGD, 5 trường chuyên biệt và CLB người Điếc thành phố Hồ Chí Minh (HDC). Tôi cũng dành 360 giờ tham gia vào các hoạt động liên quan đến công việc làm giảng viên quốc tế của mình, chia sẻ những hiểu biết về ngôn ngữ học xã hội, thể chế - nhà nước và chính sách có được từ các phát hiện trong nghiên cứu. Từ năm 2012 đến 2014, tôi đã tiến hành khoảng 20 phỏng vấn cá nhân và nhóm với những đơn vị tổ chức cộng đồng người Điếc về công việc của họ ở miền Nam Việt Nam.
Trong DAGD, tôi đã tham gia nhiều hoạt động khác nhau, trong đó có các lớp học cấp trung học và năm đầu hệ cao đẳng; tham gia các buổi gặp gỡ tổ chức sinh viên do đồng giám đốc DAGD tổ chức; tham gia các buổi lễ khai giảng và bế giảng có sự giam gia của gia đình học sinh, ban giám hiệu nhà trường và đại diện Quỹ Nippon Foundation và các cuộc họp của DAGD với ban giám hiệu trường cao đẳng để hỗ trợ DAGD chuẩn bị thành lập chương trình đào tạo phiên dịch chính thức. Tháng 7/2008, tôi dạy một khóa học múa kéo dài 6 tuần cho 4 nhóm học sinh và cuối khóa đã hoàn thành một bài múa có biên đạo.18 Đôi khi tôi cũng dạy thay một số lớp tiếng Anh khi các cán bộ DAGD không dạy được. Bên cạnh các hoạt động chính thức, tôi cũng giao lưu với các sinh viên và nhân viên DAGD trước và sau ngày học và trong cuối tuần.
Tại các trường chuyên biệt, phạm vi quan sát của tôi là tương đối hạn chế. Tôi tập trung vào các lớp sau tiểu học, các cuộc trao đổi giữa hiệu trưởng và giáo viên, và tương tác với học sinh trong giờ nghỉ trưa hoặc trong giờ các em vào học hoặc tan học. Trong những hoạt động kể trên thì tôi làm việc nhiều nhất ở CLB người Điếc Tp.HCM (HDC). Tôi đã tham gia tổng cộng trên 20 cuộc họp vào cuối tuần của HDC (mỗi cuộc kéo dài khoảng 2 tiếng) và tham gia vào nhiều hoạt động của HDC, bao gồm: các cuộc họp lập kế hoạch hoạt động của HDC; đón tiếp các khách đến thăm là người Điếc từ các quốc gia khác; tham gia các sự kiện đặc biệt như Tết cổ truyền Việt Nam, ngày Quốc tế Phụ nữ và các cuộc trao đổi với các thành viên về NNKH TP. HCM và các mục tiêu thay đổi xã hội. Tôi cũng phối hợp với các cán bộ thuộc DAGD và các lãnh đạo của HDC để chuẩn bị và trình bày tại một hội thảo về phiên dịch NNKH TP.HCM tổ chức tại phòng họp của HDC.19
Sau khi hoàn thành công tác thực địa sơ bộ tại DAGD, khi tôi trở lại Việt Nam để làm công tác thực địa cho luận án, tôi đã tiến hành những cuộc phỏng vấn đầu tiên với sự đồng thuận của những người trưởng thành trong DAGD này (với những học sinh trên 18 tuổi).20 Các học sinh và nhân sự DAGD cũng giới thiệu tôi với HDC và những người Điếc sinh sống ở Tp.HCM mà hiện không tham gia vào DAGD hay là thành viên của HDC. Một số học sinh DAGD và các lãnh đạo của HDC (một số người trong đó đã dạy tôi NNKH TP.HCM) cũng mời tôi tham gia các sự kiện như các buổi tiệc từ thiện do nhà nước tổ chức thường niên nhân dịp Tết nguyên đán và các cuộc họp giữa lãnh đạo HDC và trường chuyên biệt và cán bộ trong các bộ ngành.
Tổng cộng, tôi đã tiến hành hơn 50 cuộc phỏng vấn chính thức, mỗi cuộc kéo dài từ 1 giờ đến 1.5 giờ. Trong số này có 8 cuộc phỏng vấn nhóm (với từ 2 đến 10 người tham dự). Có 48 cá nhân đã tham gia các cuộc phỏng vấn (trong đó có 9 người tham dự nhiều hơn một cuộc phỏng vấn). Trong số những người được phỏng vấn, có 32 người tự xác định mình là người Điếc, 15 người tự xác định là người nghe và 1 người tự xác định mình là người nghe kém. Ngoài ra, tôi cũng tiến hành 15-20 cuộc phỏng vấn không chính thức với các giáo viên, gia đình trẻ em Điếc, cán bộ thuộc các bộ, chủ đơn vị kinh doanh tuyển dịch người Điếc tại Tp.Hồ Chí Minh và một chủ doanh nghiệp là người Điếc.
Tôi ghi hình tất cả các cuộc phỏng vấn với những người sử dụng NNKH TP.HCM, bao gồm những người không Điếc nhưng biết NNKH TP.HCM (chẳng hạn như các nhân sự thuộc DAGD), để ghi lại những thực hành ngôn ngữ họ thể hiện mà có thể liên quan đến NNKH TP.HCM, chẳng hạn như chuyển đổi ngôn ngữ (hay chuyển mã - code switching) và chỉ trỏ (trực chỉ - deixis). Tôi ghi âm các cuộc phỏng vấn với những người không dùng ký hiệu, trừ khi người được phỏng vấn từ chối ghi âm.
Tôi đã phỏng vấn những người Điếc bằng NNKH TP. HCM. Trong những cuộc phỏng vấn đầu, tôi nhận thấy những người được phỏng vấn thường sử dụng hệ thống đánh vần bằng tay dựa trên tiếng Anh (tức là đánh vần các từ tiếng Anh sử dụng bảng chữ cái tiếng Anh). Họ cũng chỉ những khái niệm họ muốn nhấn mạnh và sử dụng hệ thống đánh vần bằng tay dựa trên tiếng Anh có vẻ như để giúp tôi hiểu hơn về ngôn ngữ học xã hội, có thể do họ tin rằng tôi có thể không quen thuộc với những thuật ngữ thể hiện bằng hệ thống đánh vần bằng tay dựa trên tiếng Việt. Để đỗ kỳ thi quốc gia lớp 12, học sinh trung học phổ thông Việt Nam phải thể hiện khả năng viết tiếng Anh thành thạo; do đó, các học sinh DAGD cũng học môn tiếng Anh trong DAGD.Sau khi đã quen với người được phỏng vấn sử dụng hệ thống đánh vần bằng tay dựa trên tiếng Anh, khi họ sử dụng các từ tiếng Anh, tôi bắt đầu hỏi họ khái niệm tương được ký hiệu như thế nào trong NNKH TP.HCM và/hoặc hệ thống đánh vần bằng tay tiếng Việt. Thỉnh thoảng, người Điếc được phỏng vấn sử dụng hệ thống đánh vần bằng tay tiếng Việt nhưng bỏ qua các ký hiệu thể hiện dấu phụ cho các nguyên âm và dấu thanh điệu. Sau đó tôi đề nghị họ hãy "đánh vần bằng tay từ đó như khi bạn đang giao tiếp với một người Điếc khác." Mục tiêu của tôi là ghi lại bất kỳ biến thể nào khi đánh vần bằng tay (chẳng hạn như tạo từ ghép, quy ước bỏ ký hiệu thể hiện dấu thanh điệu khi viết).
Trong suốt các cuộc phỏng vấn, tôi luôn mang theo từ điển Anh - Việt và Việt - Anh. Người được phỏng vấn và tôi thường cùng tra cứu các thuật ngữ, và việc này thường trở thành một chủ đề trao đổi trong quá trình phỏng vấn. Sau khi gõ lại nội dung phần phỏng vấn thành văn bản, tôi chia sẻ phần ghi chép này cho những người được phỏng vấn và hiệu đính lại nội dung phỏng vấn cho chính xác. Sau đó tôi sẽ có những cuộc họp tiếp theo với họ, có thể gặp trực tiếp hoặc qua Skype.
Sau khi thảo luận và được những người được phỏng vấn đồng ý trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin, tôi bắt đầu phỏng vấn những người Điếc bằng việc hỏi tuổi của họ. Bên cạnh việc thu thập những dữ liệu nhân khẩu học quan trọng mà tôi có thể tham khảo chéo với các thông tin liên quan khác, chẳng hạn như độ tuổi mà người được phỏng vấn đã học NNKH và số năm họ đã học ở trường, việc hỏi tuổi giúp tôi định hình một phông văn hóa cho cuộc phỏng vấn, chẳng hạn như tôi sẽ tự xưng là chị (vì tôi là phụ nữ và lớn tuổi hơn) và gọi người được phỏng vấn là em (do họ nhỏ tuổi hơn, dù là nam hay nữ). Sau đó tôi thường hỏi độ tuổi khi họ bắt đầu đi học và tên, địa điểm của ngôi trường. Những câu hỏi này giúp phần phỏng vấn trở thành một cuộc thảo luận bớt mang tính cấu trúc hơn, thay vào đó là các câu hỏi xoay quanh việc giao tiếp tại gia đình và trường học, trải nghiệm tại lớp học, mục tiêu cá nhân về giáo dục, trải nghiệm xã hội với những người nghe, v.v... Ngoài những câu hỏi ban đầu, tôi cũng áp dụng phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc, đồng thời định hướng cuộc phỏng vấn để tập trung vào những nội dung trọng tâm của nghiên cứu.
Với những người nghe, tôi phỏng vấn bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh hoặc cả hai. Với những cuộc phỏng vấn hoàn toàn bằng tiếng Việt, một nhân sự/phiên dịch viên của DAGD đã đồng ý làm phiên dịch Anh - Việt cho tôi. Phần dịch thuật của cô ấy trong những cuộc phỏng vấn này đã góp phần khiến cuộc phỏng vấn trôi chảy và cởi mở, đồng thời đóng góp vào chất lượng của dữ liệu nghiên cứu: Không chỉ tôi mà những người được phỏng vấn đều biết Mĩ. Nhờ có Mĩ mà chúng tôi có thể làm quen với nhau một cách cởi mở, mà nếu không có cô ấy thì những người được phỏng vấn có lẽ sẽ ít chia sẻ góc nhìn và trải nghiệm của họ với tôi. Không những vậy, kiến thức và trải nghiệm làm phiên dịch tiếng Việt - NNKH của Mĩ giúp cô ấy nắm rõ những thuật ngữ liên quan đến người Điếc, giáo dục cho người Điếc và các chính sách và thực tiễn liên quan quan.
Mĩ học phiên dịch chỉ bằng cách tương tác với người Điếc Việt Nam, Mĩ chia sẻ với tôi rằng nhiều giáo viên của cô ấy đã rất vất vả trong suốt cả thập kỷ trước đó để giải thích cho cô hiểu sự khác biệt giữa NNKH TP.HCM và ra ký hiệu theo trật từ từ của tiếng Việt, cũng như những khía cạnh về ngôn ngữ và văn hóa xã hội trong những trải nghiệm của người Điếc. Mĩ cũng rất hứng thú tìm hiểu và truyền tải ý nghĩa đằng sau khi tiến hành phiên dịch. Chẳng hạn như thay vì làm theo những phiên dịch ngôn ngữ nói khác, tức là chuyển đồi về mặt hình thức những từ ngữ trong ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích, Mĩ đã tìm cách tạo ra những khái niệm tương đương - điều thường được nhấn mạnh trong những tài liệu về phiên dịch NNKH sang ngôn ngữ nói. Cô ấy cũng chú tâm đến những ẩn ý phía sau. Cả hai chúng tôi đều mong muốn hiểu rõ hơn đâu là những hoàn cảnh khiến cho người Điếc và NNKH ít được coi trọng. Thế nên sau khi kết thúc phỏng vấn, Mĩ thường giải thích cho tôi phong cách diễn đạt có thể thể hiện quan điểm của người nói về một chủ đề nào đó như thế nào, cũng như những khía cạnh khác trong giao tiếp. Những cuộc trò chuyện này với Mĩ là điều khiến tôi gợi lên câu hỏi sự khác biệt giữa những thuật ngữ như khiếm thính [hearing impairment] và người Điếc [Deaf person] là gì, cũng như những thuật ngữ được đánh dấu/không được đánh dấu khác [marked và unmarked terms].21 Trong chương 5 và chương 6 tôi phân tích những khái niệm này và những hàm ý xã hội liên quan.
Tương tự như với những người được phỏng vấn là người Điếc, tôi cũng bắt đầu phỏng vấn người nghe bằng việc trao đổi về sự đồng thuận trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin. Tuy nhiên, không như với những người Điếc, khi bắt đầu phần phỏng vấn thực sự tôi không hỏi người nghe về tuổi của họ; Mĩ và những người Điếc đã giải thích cho tôi rằng người Điếc có thể hỏi tuổi nhau, nhưng người nghe thì thường không làm vậy. Thay vào đó, người nghe thường cẩn trọng đoán tuổi và tình trạng của người đối diện (như đã kết hôn hoặc có người yêu chưa). Để giữ phép lịch sự với người tương tác là người nghe, tôi thường bắt đầu bằng việc hỏi công việc hiện tại của họ là gì. Câu hỏi này giúp người được phỏng vấn thiết lập lĩnh vực chuyên môn và địa vị của họ. Sau đó tôi hỏi họ bắt đầu làm việc với người Điếc như thế nào, họ quản lý hay dạy những chương trình, hoạt động nào với người Điếc, quá trình giao tiếp, những khó khăn gặp phải, kết quả chương trình và quan điểm của họ xem điều gì có thể hỗ trợ toàn diện cho những mục tiêu của chương trình họ đang triển khai. Trước khi phỏng vấn, tôi chuẩn bị một danh sách các câu hỏi cần trao đổi, bất kể vai trò của người được phỏng vấn với những người Điếc họ thường tương tác (VD: người quản lý chương trình, giáo viên) và những trải nghiệm cụ thể và quan điểm của họ liên quan đến người Điếc và NNKH TP.HCM. Tương tự như trong những cuộc phỏng vấn với người Điếc, khi trao đổi tôi thường cân đối giữa việc đặt câu hỏi liên quan đến những chủ đề mà người được phỏng vấn đề cập và những câu hỏi tôi đã chuẩn bị trước.
Thông tin về sự đồng thuận trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin (IC): 33 trên tổng 48 cá nhân đã ký bản đồng thuận trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin. Tất cả 32 Điếc người được phỏng vấn đồng ý với IC. Tất cả 32 người này đồng ý cho ghi hình; trong đó có 2 người cho phép công bố hình ảnh của họ khi trích dẫn trực tiếp và/hoặc khi họ ra ký hiệu cho một khái niệm. Tất cả 15 người nghe được phỏng vấn đã đọc bản đồng thuận; trong đó 9 người từ chối ký nhưng đồng ý cho phỏng vấn. Sáu trong số 9 người từ chối ký bản đồng thuận cũng từ chối cho ghi hình hoặc ghi âm, nhưng cho phép tôi được ghi chép bằng tay. Những người này cho biết họ không muốn xuất hiện trong băng ghi hình hoặc ghi âm do tính nhạy cảm của vị trí công việc họ đang đảm nhiệm. Một người nắm giữ vị trí cao trong ngành giáo dục chia sẻ với tôi rằng cô ấy lo ngại việc các cán bộ trong Bộ GD&ĐT biết về những bình luận của cô ấy. Tuy nhiên, cô ấy vẫn quyết định tham gia phòng vấn vì "điều quan trọng là mọi người cần thảo luận về những gì đang thực sự xảy ra trong những trường này và làm thế nào để dạy học sinh khiếm thính tốt hơn." Tôi đưa cho tất cả những người được phỏng vấn bản đồng thuận bằng tiếng Việt và tiếng Anh, cho dù họ có đồng ý ký hay không. Tôi cũng dịch bản đồng thuận sang NNKH TP.HCM, và đưa cho họ bản họ muốn dùng (bản viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh, và/hoặc NNKH TP.HCM).
Bên cạnh những cuộc phỏng vấn chính thức và không chính thức, tôi cũng tiến hành khảo sát các nhóm sau: (1) học sinh NNKH TP.HCM (không Điếc); (2) học sinh DAGD; và (3) hiệu trưởng của 5 trường chuyên biệt. Có 38 học sinh NNKH TP.HCM tham gia khảo sát, các câu hỏi khảo sát về việc tương tác với người Điếc và lý do tại sao các em học NNKH TP.HCM (xem thêm ở Chương 6). Bản khảo sát gồm có 9 câu hỏi, trong đó có 2 câu hỏi đóng về thời gian học và số lượng giáo viên, và 7 câu hỏi mở về thái độ và giá trị ngôn ngữ học xã hội. Mĩ đã dịch phần khảo sát này sang tiếng Việt. Một trong số những giáo viên NNKH TP. HCM của tôi tên là Nga đã phối hợp để chuyển bản khảo sát đến một trong số những lớp của cô ấy (gồm 6 học sinh) và quan sát quá trình khảo sát của tôi. Nga và tôi sau đó gặp hai giảng viên NNKH TP. HCM khác, cô đã giải thích về nội dung và cách thức khảo sát. Sau đó, chúng tôi thảo luận các câu hỏi trên khía cạnh lý do thực hiện, phân tích dữ liệu và báo cáo. Sau đó 3 giảng viên này đã tiến hành thêm 32 cuộc khảo sát (mà tôi không tham dự). Các học sinh NNKH TP. HCM tham gia khảo sát đều viết câu trả lời bằng tiếng Việt.
Đợt khảo sát thứ hai tôi thực hiện có 47 học sinh DAGD tham gia (xem Chương 3). Khảo sát này gồm 12 câu hỏi: 4 câu hỏi nhân khẩu học (tuổi, tên trường tiểu học, tỉnh, và số người Điếc khác trong gia đình [nếu có]) và 8 câu hỏi mô tả (giao tiếp tại nhà và tại trường, tuổi và cách thức học sinh học NNKH, phản ứng của giáo viên trường chuyên biệt khi các em dùng NNKH, trải nghiệm khi đi học và khi đi làm). Cũng như khảo sát NNKH TP. HCM, Mĩ đã dịch phần khảo sát này sang tiếng Việt. Trước khi chuyển bản khảo sát cho người tham gia, tôi đã hỏi họ xem họ muốn nhận văn bản viết bằng tiếng Việt hay bản dùng NNKH TP. HCM. Tất cả những người tham gia đều chọn NNKH TP. HCM, do đó tôi đã tiến hành khảo sát bằng ngôn ngữ này theo hình thức nhóm (mỗi nhóm có 8–10 học sinh), tôi hỏi các câu hỏi nhân khẩu học trước, sau đó đến các câu hỏi mô tả. Với các câu hỏi mô tả, học sinh sẽ giơ tay biểu quyết như sau: Các giáo viên tiểu học giao tiếp với các em như thế nào - dùng NNKH? Dùng ngôn ngữ nói? Cả hai? Khi các em ra ký hiệu, tôi viết lại các phản hồi nhanh nhất có thể để tránh ngắt quãng quá trình giao tiếp. Tôi rất bất ngờ vì sự hào hứng của các em khi chia sẻ, ngay cả khi trong một số trường hợp, đó là những hồi ức thực sự đau lòng khi các em bị giáo viên đánh vì sử dụng NNKH Việt Nam. Những chữ viết tay của tôi khi đó trải dài trên trang giấy như dòng suối, với cả những từ bằng tiếng Anh và tiếng Việt (các từ được đánh vần bằng tay, các từ chuyển thể từ NNKH sang dạng viết), nghiêng theo trang giấy. Trong tương lai, tôi sẽ ghi hình các cuộc khảo sát bằng NNKH TP. HCM, tôi tin rằng có những nội dung tự sự quý giá đã bị sót do khả năng tốc ký còn hạn chế của mình và do tôi không thể xem lại những tương tác giữa những người tham gia khảo sát.
Cuộc khảo sát thứ ba của tôi được tiến hành qua thư điện tử với 4 hiệu trưởng và một phó hiệu trưởng của năm trường chuyên biệt trong nghiên cứu (xem Chương 3). Trong quá trình mã hóa dữ liệu, tôi nhận ra rằng mình không có dữ liệu nhân khẩu học nhất quán cho từng trường chuyên biệt, do đó tôi đã tạo một khảo sát gồm 11 câu hỏi về nhân khẩu học và đặc điểm chương trình đào tạo, bao gồm đào tạo giáo viên, phương thức giảng dạy và năm trường bắt đầu giáo dục hòa nhập. Để đảm bảo tính rõ ràng của khảo sát, tôi đã dịch bản khảo sát sang tiếng Việt sau đó Mĩ hiệu đính. Cả năm người đã hoàn thành khảo sát, giúp tôi có được nhiều thông tin chi tiết về các trường này, cả trên phương diện từng trường riêng lẻ và dưới góc độ là một tập hợp đại diện cho các trường chuyên biệt trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Như phần mô tả phương pháp nghiên cứu phía trên, quá trình nghiên cứu và các phát hiện từ việc phân tích được định hình rõ ràng từ những tương tác và đầu vào từ những người tham gia nghiên cứu - cụ thể là những người Điếc tham gia - cũng như từ những hoạt động cộng tác với những người khác không trực tiếp liên quan đến nghiên cứu. Dù có những tương tác này, nhưng sẽ là không đúng nếu cho rằng nghiên cứu được đề cập trong cuốn sách này là nỗ lực chung giống như nỗ lực được mô tả trong các tài liệu gần đây về những hợp tác của những nhà nghiên cứu về cộng đồng người Điếc mà tôi thảo luận sâu hơn ở Chương 2 của cuốn sách này (Cooper và Nguyễn 2015; Harris, Holmes, và Mertens 2009; Singleton 2014).
Phần mô tả về lần tương tác đầu tiên giữa tôi và một người Điếc miền Nam Việt Nam trong lần đầu tôi đến thăm DAGD minh họa cho sự đan xen giữa ngôn ngữ, cách biểu hiện của ngôn ngữ, trạng thái của chủ thể và quyền tự quyết về chính trị xã hội. Cuộc gặp gỡ này diễn ra khi tôi thực hiện chuyến thực địa sơ bộ vào tháng 6/2007, chúng tôi gặp nhau tại lối vào tòa nhà chính của trường cao đẳng (nay là trường đại học) nơi DAGD thuê mặt bằng.
Khuôn viên của trường cao đẳng này có khoảng mười khu giảng đường, thư viện, nơi giải trí, ký túc xá cho giảng viên và sinh viên. Các cán bộ đồng phụ trách của DAGD đã cho tôi đi nhờ xe từ TP.HCM ngày hôm đó và sắp xếp một sinh viên DAGD chào đón tôi trong lần đầu đến thăm dự án. Em sinh viên đó chạc khoảng 25 tuổi, chúng tôi tiến về phía nhau và em đó ra ký hiệu CHÀO—mà tôi thì không biết ký hiệu này. Do đây là lần gặp đầu tiên nên tôi đoán rằng ký hiệu đó nghĩa giống như HELLO (và đúng là như vậy). Tôi bắt chước ký hiệu của em đó và nghĩ rằng hoặc ngôn ngữ bằng ký hiệu của chúng tôi có một số cách chào tương tự hoặc biết rằng tôi sử dụng ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (ASL) thì em học sinh đó cũng đang thích nghi với việc tôi không rành NNKH TP.HCM. Những tương tác sau đó đã khẳng định rằng với ít nhất một ký hiệu này, ASL và NNKH TP.HCM có một số hình thái ngôn ngữ học tương tự nhau. Sau đó em ấy ra ký hiệu với lông mày nhướng lên, tôi hiểu là CÔ LÀ NGƯỜI ĐIẾC HAY NGƯỜI NGHE?22 Cấu trúc này dường như tương tự như dạng ngữ pháp của câu hỏi có-không trong ASL. Tôi tái tạo ký hiệu tôi nghĩ là NGƯỜI ĐIẾC và NGƯỜI NGHE, như thể đang nói với chính mình. Sau đó, tôi chỉ tay về phía em ấy với đôi lông mày nhướng lên23, bắt chước ký hiệu em ấy vừa dùng và hỏi "EM CÓ PHẢI LÀ NGƯỜI ĐIẾC KHÔNG?" Em ấy gật đầu và mỉm cười thích thú, như thể muốn nói "Tất nhiên rồi!" Sau đó em ấy tự chỉ vào mình và ra ký hiệu ĐIẾC. Sau khi em ấy xác nhận, tôi quay lại trả lời câu hỏi ban đầu em đưa ra, sử dụng ký hiệu em ấy dùng cho NGHE, chỉ vào chính mình và gật đầu xác nhận.
Em học sinh đó chỉ vào mình và đánh vần bằng tay: M-I-N-H H-A-I. Em ấy cho tôi biết tên ký hiệu của em - thể hiện bằng chữ M (đánh vần bằng tay) trên lông mày phía trên bên phải - và tôi cho em ấy biết tên ký hiệu của mình - chữ A đặt theo hướng thẳng đứng ở cầm bên phải.24 Sau đó Minh Hải chỉ về phía cầu thang; Tôi cũng chỉ và nhướng mày chờ xem liệu em ấy có hiểu đó là câu hỏi của tôi hay không (tức là HƯỚNG NÀY À ?). Em ấy gật đầu và tiếp tục bằng cách ra ký hiệu mà tôi hiểu có nghĩa là ĐI BỘ LÊN TẦNG CAO NHẤT (cẳng tay trái được giữ thẳng đứng, tay phải tạo dấu hiệu (classifier) chuyển động dọc theo đường từ khuỷu tay đến cổ tay). Sau đó em ra ký hiệu TRÊN CÙNG thứ 5 TẦNG,” tôi một lần nữa đoán dựa trên bối cảnh là những khái niệm về tầng, lầu, tầng thượng được biểu hiện khác với ASL.
Khi tôi và Minh Hải đi lên cầu thang, em ấy sử dụng một cử chỉ thể hiện trải nghiệm hàng ngày là lau mồ hôi trên trán và nhướng mày, sử dụng các hình thức ngữ pháp phi cử chỉ như đã đề cập ở trên. Tôi hiểu là em đang hỏi tôi leo cầu thang như vậy có mệt quá không (McNeill, 1992). Tôi lắc đầu để biểu thị “không”, sau đó mỉm cười và ra bộ nâng tạ và chỉ vào bản thân, gật đầu khẳng định. Những bộ cử chỉ không chuẩn tắc thường sử dụng khi người Điếc giao tiếp với những người nghe không sử dụng ngôn ngữ ký hiệu (Ví dụ: đồng nghiệp giao tiếp với nhau), gồm các cử chỉ chỉ tay và biểu tượng, chẳng hạn như "giơ ngón tay cái lên" (thumbs up) trong ngữ cảnh Bắc Mỹ ( Dudis, giao tiếp cá nhân). Ngoài việc trao đổi các từ vựng bằng ngôn ngữ thứ nhất (dấu hiệu), khi những người sử dụng ký hiệu gặp nhau trong các bối cảnh khác biệt về ngôn ngữ (ví dụ: người ra ký hiệu sử dụng các phương ngữ ký hiệu khác nhau trong cùng một quốc gia hoặc ở các quốc gia khác nhau). Những người Điếc ra ký hiệu khi không có ngôn ngữ chung thường sử dụng một số chiến lược để giao tiếp với nhau (ví dụ: sử dụng cử chỉ, chuyển mã sang ngôn ngữ bằng ký hiệu khác và đánh vần bằng tay đi kèm với các dạng viết hoặc in của các phương ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia của người mình đang tương tác (Lane, Hoffmeister, & Bahan, 1996, trang 207–209; xem thêm Friedner & Kusters, 2015).
Khi chúng tôi lên đến tầng thượng thì Minh Hải và tôi đã nói được một vài chuyện - chuyến bay của tôi từ Hoa Kỳ, nghỉ ngơi vào đêm hôm trước và bữa sáng hôm sau - tôi đã học được một số từ vựng mình hiểu được vào từ điển NNKH TP.HCM vừa mới ra đời của mình. Cũng cần lưu ý rằng khi lần đầu đến Việt Nam, tôi không biết tiếng Việt và cũng chưa đạt khả năng giao tiếng Việt ở mức độ này - hay bất kỳ giao tiếp trực tiếp đáng kể nào - với những người nói tiếng Việt.
Ở đầu cầu thang, một nhóm khoảng 10 học sinh đang đợi, nhìn tôi và Minh Hải trò chuyện. Tôi ra ký hiệu CHÀO, và Minh Hải giới thiệu tôi. Em ấy nói tôi đến từ ([nước] MỸ). Sau đó, các em học sinh bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi mà tôi chỉ có thể hiểu được một phần. Minh Hải đã giúp tôi trò chuyện với các em, làm rõ các câu hỏi và câu trả lời của tôi, vừa dạy vừa thông dịch cho tôi trong mỗi lượt trò chuyện. Em ấy đã đặt các ký hiệu mà em ấy đã giới thiệu vào bối cảnh thích hợp và cũng sử dụng các chiến lược tôi đề cập phía trên. Cuối buổi sáng hôm đó, tôi được biết Minh Hải là một giáo viên NNKH TP.HCM đã qua đào tạo, điều này cũng dễ hiểu khi em ấy đã khéo léo sử dụng một số kỹ thuật để giúp tôi giao tiếp rõ ràng với các học sinh trung học cơ sở ở DAGD. Nhóm học sinh này cũng hỏi tôi có phải là người “NGHE“ không, và tôi dùng luôn ký hiệu tôi mới học để trả lời. Tuy nhiên, tôi cũng có một số câu hỏi liên quan.
Theo trải nghiệm của tôi với các cộng đồng Người Điếc Hoa Kỳ, tôi xem câu hỏi về tình trạng thính giác của mình không chỉ là câu hỏi về mối quan hệ văn hóa xã hội mà còn cả về quan điểm ngôn ngữ, chính trị xã hội và trải nghiệm (Padden & Humphries, 1990; Lane, Hoffmeister, & Bahan, 1996). Dựa trên những cuộc trò chuyện ít ỏi nhưng lặp đi lặp lại trong giờ đầu tiên tại DAGD, tôi phỏng đoán rằng tôi sẽ nhận được câu hỏi tương tự trong những cuộc gặp đầu tiên với người Điếc ở Việt Nam; tuy nhiên, tôi băn khoăn không biết câu hỏi này có ý nghĩa như thế nào đối với người Điếc ở miền Nam Việt Nam: Việc phân biệt thành nhóm NGHE và ĐIẾC này chỉ áp dụng ở DAGD hay còn là quy ước xã hội để phân loại các nhóm người khác nhau? Và những nhóm này chỉ được quy ước trong cộng đồng người Điếc, hay còn là quy ước trong cộng đồng người nghe nữa? Nếu được quy ước bởi cả người ĐIẾC và người NGHE thì những thái độ, giá trị, niềm tin, v.v. liên quan đến các nhóm này là gì và chúng được biểu hiện như thế nào ngoài việc để mô tả trong cuộc sống hàng ngày — chẳng hạn như trong các hoạt động của các cơ quan thể chế và các hệ thống giải thích (explanatory system)? Khi tôi trả lời các em học sinh này, “Ừ, NGHE,” các em nhìn tôi ngạc nhiên và thốt lên đầy thích thú, “NHƯNG CÔ CÓ THỂ DÙNG KÝ HIỆU! Phản hồi này của các em là cánh cửa ban đầu mở ra những trải nghiệm, thái độ và thực hành ngôn ngữ của người Điếc (và người nghe) ở miền Nam Việt Nam, cũng như những tác động tiềm ẩn đối với việc tiếp cận xã hội và tính chủ quan của người Điếc.
Vào buổi chiều hôm đó, các em học sinh tụ tập quanh văn phòng DAGD để gặp người mới mà nhóm học sinh đầu tiên đã nói với họ là CÔ ĐIẾC TỪ NƯỚC MỸ. Trong ba tuần diễn ra chuyến thực địa sơ bộ, những học sinh mà tôi đã gặp vẫn thỉnh thoảng hỏi lại tôi là người ĐIẾC hay NGHE. Sau đó các em đề nghị tôi chia sẻ xem tôi đã học ngôn ngữ ký hiệu như thế nào và người ĐIẾC và người NGHE ở nước Mỹ giao tiếp ra sao.
Những chi tiết này là rất quan trọng để hiểu được cách tiếp cận tôi có với những người Điếc tham gia nghiên cứu; tuy nhiên, họ cũng nhấn mạnh việc tạo thuận lợi cho cách thức tiếp cận, chẳng hạn như các hành động của cơ thể được công nhận là có ý nghĩa đối với những người ra ký hiệu mà tôi chưa gặp trước đây và những người tôi không có ngôn ngữ chung. Đó là, Minh Hải và tôi đã sử dụng mắt, mặt, tay và phối hợp sử dụng toàn bộ cơ thể theo những cách thức mà không phải chỉ có ở riêng NNKH TP.HCM (ký hiệu mà tôi không biết) hay ASL (mà em ấy không biết). Phương thức tương tác này không chỉ làm cho chúng tôi hiểu nhau ở cấp độ hiện thân (giữa hai con người bằng xương bằng thịt) mà còn cả những đặc điểm ngôn ngữ của NNKH TP.HCM - yếu tố đặt nền tảng cho toàn bộ dự án nghiên cứu này. Đáng chú ý, những tương tác này đã giúp tôi biết đến những điều kiện xã hội trái ngược mà người Điếc Việt Nam phải đối mặt khi tương tác với những người nghe — cả những người biết NNKH TP.HCM và những người không biết. Đặc điểm chính của những điều kiện này đó là ĐIẾC nghĩa là gì; sau nhiều cuộc phỏng vấn sau cuộc phỏng vấn với các học sinh DAGD, điều gây ấn tượng với tôi đó là đã là người Điếc nghĩa thì phải sử dụng các NNKH Việt Nam. Các giá trị xã hội học của Điếc, khả năng tự quyết định dựa trên ngôn ngữ ký hiệu và nhận dạng liên chủ thể là một trong số các chủ đề mà nghiên cứu này xem xét và áp dụng trong các cuộc thảo luận của các nhà tổ chức xã hội của người Điếc về “sự chuyển đổi-thay thế” chính trị xã hội trên phương diện các thái độ đối với ngôn ngữ nói thống trị và các sáng kiến liên quan để thúc đẩy quyền lực chính trị xã hội của người Điếc (Pêcheux, 1982).
Nghiên cứu, Tiếp thu ngôn ngữ và Xã hội hóa
Trong chuyến đi nghiên cứu sơ bộ đến Việt Nam vào năm 2007, những người phụ trách DAGD đã đồng ý sắp xếp các buổi học NNKH TP.HCM chính thức cho tôi, ngay sau chuyến thăm đầu tiên của tôi đến DAGD như đã mô tả trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Minh Hải. Trong tháng đầu tiên ở Việt Nam, ngày nào tôi cũng học NNKH TP.HCM và giao lưu với các học sinh DAGD vào buổi tối và cuối tuần. Việc này giúp tôi tăng vốn từ NNKH TP.HCM và hiểu hơn về ngữ pháp của NNKH TP.HCM. Trong suốt thời làm luận văn, tôi vẫn tham gia các buổi học chính thức, nhưng dần dần thì ngừng lại khi tôi đã có thể dùng trong các trao đổi hàng ngày. Tuy nhiên, hiếm khi tôi hiểu hết những nội dung mà người Điếc Việt Nam ra ký hiệu với tôi, và việc hiểu nội dung họ trao đổi với nhau thì càng hiếm hoi hơn. Cũng giống như những người bạn Điếc và giáo viên ASL đã giúp tôi học ASL bằng cách xem tôi phản hồi khi giao tiếp với họ và điều chỉnh cách ra ký hiệu cho phù hợp với mức độ hiểu của tôi, những người Điếc Việt Nam đã giúp tôi tăng cường năng lực hiểu ngôn ngữ xã hội bằng cách xem tôi phản hồi khi giao tiếp với họ và đảm bảo tôi hiểu đúng bằng cách đặt câu hỏi, làm rõ, lặp lại, diễn đạt lại và thay thế bằng các từ đánh vần bằng tay hoặc ký hiệu khác.
Những người không sử dụng hoặc mới sử dụng ký hiệu thường nghĩ các ngôn ngữ bằng ký hiệu là đơn giản. Việc tôi có thể sử dụng NNKH TP.HCM bất kể ở trình độ nào trong một khoảng thời gian tương đối ngắn khiến NNKH TP.HCM dễ bị hiểu lầm như vậy. Những trường hợp như vậy cho thấy tầm quan trọng của những nỗ lực khi giao tiếp của những người Điếc tham gia nghiên cứu, sự hợp tác của chúng tôi khi giao tiếp và trình độ NNKH TP.HCM đã được cải thiện của tôi trong suốt thời gian tiến hành nghiên cứu này. Mặc dù đúng là tôi đã giao tiếp trực tiếp và thường xuyên với những người Điếc Việt Nam bằng NNKH TP.HCM, nhưng sự thành công của việc giao tiếp đó luôn phụ thuộc vào sự kiên nhẫn, kỹ năng phân tích và giao tiếp của những người Điếc Việt Nam mà tôi đã tiếp xúc.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác góp phần vào khả năng tiếp cận ngôn ngữ mà tôi có được tại các địa điểm nghiên cứu khác nhau, đặc biệt là giữa những người Điếc tham gia nghiên và các cộng tác viên. Phần lớn cơ hội tiếp cận NNKH TP.HCM ban đầu của tôi có thể là do tác động nhất định từ ASL mà tôi đã sử dụng liên tục trong cuộc sống cá nhân và công việc chuyên môn của mình trong hơn suốt hai mươi năm. Các buổi học NNKH TP.HCM chính thức sau đó cũng giúp tôi có được vốn từ vựng ban đầu và tôi bắt đầu thay thế từ vựng giữa các ký hiệu ASL và ký hiệu NNKH TP.HCM. Khi các khái niệm trong hai ngôn ngữ khác nhau đáng kể, các giáo viên của tôi và những người khác đã giúp tôi xây dựng vốn từ theo NNKH TP.HCM. Tôi mất nhiều thời gian hơn để bắt đầu hiểu được ngữ pháp của NNKH TP.HCM, và tôi cũng không sử dụng được một cách không nhất quán cho đến tận bây giờ. Việc đánh vần bằng tay NNKH TP.HCM cũng vậy. Trong các giao tiếp và phỏng vấn hàng ngày, tôi thường đánh vần những từ tiếng Việt mà tôi biết; khi có thể, tôi dùng một cuốn từ điển Việt-Anh bìa mềm và sau đó là ứng dụng từ điển Việt-Anh trên điện thoại thông minh của tôi và của những người được phỏng vấn để hỗ trợ.
Việc tiếp cận các trường chuyên biệt dành cho người Điếc của tôi cũng phụ thuộc nhiều vào các mối quan hệ xã hội giữa những người Việt Nam giới thiệu và đón tiếp tôi (hầu hết là người không Điếc) và địa điểm nơi việc giới thiệu diễn ra. Chẳng hạn như lần tiếp xúc đầu tiên của tôi với các trường chuyên biệt là kết quả của một loạt các buổi giới thiệu có sự tham gia của các giáo viên NNKH TP.HCM của tôi (từ DAGD), họ đã giới thiệu tôi với Trung tâm Phát triển ở TP.HCM; Sau đó, Trung tâm Phát triển đã mời tôi phát biểu tại một hội nghị họ tổ chức vào năm 2009 mang tên “Làm thế nào để có một cuộc sống tốt với người khiếm thính”. Sự kiện này có sự tham gia của hiệu trưởng và giáo viên các trường chuyên biệt dành cho người Điếc từ các khu vực lân cận. Ngoài ra, tôi cũng biết đến các nhân viên của các trường chuyên biệt khi hợp tác với lãnh đạo Câu lạc bộ người Điếc TP.HCM và những người đồng phụ trách DAGD tổ chức hội thảo phiên dịch NNKH TP.HCM-Tiếng Việt. Để chuẩn bị cho buổi hội thảo, tôi đã cùng các đồng nghiệp Điếc và một phiên dịch viên NNKH TP.HCM-tiếng Việt đến từng trường để đích thân mời cán bộ giáo viên của họ đến tham dự hội thảo. Sau sự kiện này, mối quan hệ của tôi với cán bộ giáo viên các trường chuyên biệt đã tăng lên đáng kể khi họ mời tôi trở lại thăm trường. Khi làm giảng viên quốc tế cho Tổ chức Quan tâm Thế giới, tôi cũng được giới thiệu với các đồng nghiệp làm việc trong lĩnh vực giáo dục cho người Điếc, các giảng viên và thông dịch viên NNKH Việt Nam và các gia đình có trẻ Điếc ở bốn tỉnh miền Bắc và miền Nam của Việt Nam. Ngoài ra, tôi đã gặp gỡ các cán bộ của Viện Khoa học Giáo dục Quốc gia, các trường chuyên biệt ở bốn tỉnh, các thứ trưởng Bộ GD&ĐT và giám đốc các viện nghiên cứu cũng như các lãnh đạo và nhân viên các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO).
Phần giới thiệu của tôi về các địa điểm nghiên cứu nơi tôi thực hiện nghiên cứu này cũng phản ánh các hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ, mạng lưới xã hội và hệ thống phân cấp, cũng như bản chất và mức độ giám sát của nhà nước tại các địa điểm khác nhau. Như đã đề cập, ban đầu tôi học và giao lưu bằng NNKH TP.HCM là nhờ sự hỗ trợ của DAGD. Việc tôi sử dụng NNKH TP.HCM sau đó đã giúp tôi kết nối với các cán bộ nhân viên các trường chuyên biệt theo đường vòng như đề cập phía trên. Cuối cùng, các giáo viên NNKH TP.HCM của tôi đã giới thiệu tôi với Trung tâm Phát triển và sau đó là câu lạc bộ mà Trung tâm hỗ trợ thành lập. Ngoài ra, vào mùa thu năm 2008, tôi tham gia khóa học tiếng Việt tại Hoa Kỳ (lớp hàng tuần kể từ tháng 11 năm 2008) và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM cũng đã giúp tôi giao lưu với cả những người Điếc và người không Điếc.
Mặc dù cho đến tận năm 2010 NNKH TP.HCM mới được nhà nước công nhận nhưng ngôn ngữ này đã được giới truyền thông quan tâm. Vào thời điểm đó, các hiệu trưởng trường chuyên biệt thường nhận xét rằng việc tôi sử dụng NNKH TP.HCM là “không bình thường”, vì thời điểm đó có rất ít người không Điếc sử dụng NNKH Việt Nam.Ban đầu, họ đồng ý gặp tôi vì đã có những người khác giới thiệu một cách phù hợp (ví dụ: giới thiệu tôi là nghiên cứu sinh tiến sỹ, sau đó là Tiến sĩ nhân loại học và / hoặc tôi có chứng chỉ quốc gia về phiên dịch ASL-tiếng Anh ở Hoa Kỳ).25 Sau nhiều lần gặp gỡ, hai hiệu trưởng hỏi liệu tôi có thể chia sẻ một số công cụ giáo dục với họ hoặc hỗ trợ tập huấn hay không. Vào đầu những năm 2010, tầm nhìn xã hội về NNKH Việt Nam đã được mở rộng; do đó, vào năm 2012, khi tôi bắt đầu công việc làm giảng viên quốc tế cho Tổ chức Quan tâm Thế giới, tôi đã không nhận được nhiều bình luận về kỹ năng sử dụng NNKH TP.HCM như những năm đầu nghiên cứu.
Quyền tiếp cận và các đặc quyền khác của nhà nghiên cứu
Việc tôi có thể tiếp cận một số khu vực và địa điểm như đề cập phía trên phản ánh một số hình thức đặc quyền tôi có được khi tham gia vào các bối cảnh đa ngôn ngữ khác nhau nơi tôi thực hiện nghiên cứu. Có thể kể đến bốn hình thức đặc quyền dường như có ảnh hưởng lớn nhất đến nghiên cứu đề cập trong cuốn sách này: (1) đặc quyền là người nghe; (2) kiến thức của tôi về ASL; (3) tôi có các bằng đại học và cao học và tại một số tổ chức học thuật tại Hoa Kỳ; và, (4) tôi có nước da trắng. Đầu tiên, khi tiến hành nghiên cứu tại các trường chuyên biệt dành cho người Điếc và các chương trình xóa mù chữ dành cho người trưởng thành, tôi nhận thấy rằng tình trạng thính giác của tôi — nghĩa đen là việc tôi nghe được những gì mọi người nói về người Điếc — đã mang lại lợi ích cho nghiên cứu bởi vì hầu hết những người không phải là người Điếc đều cho rằng tôi không biết tiếng Việt, họ sẽ nói những điều về người Điếc và/hoặc ngôn ngữ ký hiệu và cuộc hội thoại đó nằm trong khoảng cách mà tôi nghe được. Điều này cho phép tôi xác định những niềm tin, giá trị, thái độ và quan điểm tư tưởng ngôn ngữ của họ về những người Điếc thường khi đó cũng có mặt ở trong phòng. Vì vậy, tôi có khả năng tiếp cận nhất định đến các địa điểm mà người Điếc sống và làm việc mà bản thân họ không tiếp cận được.26
Kiến thức về ASL tôi được cho là có đã tạo nên một số yếu tố giúp tôi có được một số đặc quyền trong các bối cảnh cụ thể. Khi tôi sử dụng NNKH TP.HCM trong các bối cảnh có người ra ký hiệu không phải người Điếc, những người tương tác này thường xuyên (và không chính xác) đánh giá cách tôi ra ký hiệu đạt mức độ thông thạo cao và đưa ra các nhận xét tự phát về “sức mạnh của ASL”, trái ngược với NNKH TP.HCM hoặc các NNKH Việt Nam khác — mặc dù thực tế là tôi đã không sử dụng ASL trong các tương tác như vậy hoặc bất kỳ tương tác nào (ngoại trừ với các khách là người Điếc đến từ Hoa Kỳ). Trong quá trình này, họ đã coi nhẹ nỗ lực tập thể đáng ghi nhận của các giáo viên NNKH TP.HCM của tôi khi dạy tôi NNKH TP.HCM. Việc tôi có bằng cử nhân từ các trường đại học Hoa Kỳ cũng có liên hệ đến đến việc coi trọng giáo dục của người dân và nhà nước Việt Nam; và cũng lập nên một khung so sánh rằng cơ hội học tập ở nước ngoài là “vượt trội” so với cơ hội học tập trong nước, cũng như sự tương quan đáng kể giữa Hoa Kỳ với tư cách là một cường quốc kinh tế và quân sự thế giới và kiến thức các cơ sở học thuật của Hoa Kỳ được cho là có được (bao gồm ASL).
Nước da trắng cũng đóng một vai trò nhất định trong các tương tác của tôi, đặc biệt là ở vùng ven đô của tỉnh Đồng Nai, chẳng hạn như khi đi dạo với đồng nghiệp Điếc vào buổi tối, mọi người sẽ đến gần tôi và đôi khi chạm vào da tôi. Mặc dù quyền lực của những người da trắng ở Việt Nam ít nhất đã có từ vài trăm năm trước và gần đây nhất là liên quan đến sự thống trị của thực dân Pháp và các di sản của chế độ này (xem Firpo, 2010), thì việc chú ý đến nước da trắng, và đặc tính "mềm" hay "da đẹp" cũng là do truyền thông ngày nay liên tục quảng bá cho làn da trắng. Các sản phẩm chăm sóc da hứa hẹn làn da trắng hơn và tông màu da của các người mẫu thời trang Việt Nam thường xuyên được chỉnh sửa sáng hơn vài tông để thỏa mãn lợi ích của các hãng sản xuất sản phẩm trắng da toàn thân. Mặc dù bạn bè và đồng nghiệp của tôi thường có ý kiến trái chiều khi tranh luận về những khác biệt khi tôi là một người da trắng, nhưng nước da trắng hầu như luôn thu hút sự chú ý tích cực và trong bối cảnh các hoạt động nghiên cứu, hay có thể là tôi được đối xử kiên nhẫn hơn, điều mà những người Việt Nam khác thường có thể không có được (xem Carruthers, 2002). Các yếu tố liên quan đến cá nhân tôi khi kết hợp lại với nhau - nước da trắng, khả năng sử dụng ngôn ngữ nói và ký hiệu, và thực sự, sự xa xỉ của việc được đào tạo sau đại học và nguồn tài trợ để thực hiện nghiên cứu — đã mang lại cho tôi uy tín và khả năng tiếp cận mọi người và các địa điểm khác nhau.
Tôi luôn ý thức về những đặc quyền này, và cố gắng kiểm soát các tác động tiềm ẩn của chúng bằng cách cộng tác với những người tham gia nghiên cứu và đối tác của tôi để chọn các phần tử dữ liệu để phân tích. Tôi đã tham khảo ý kiến của các đối tác về cả phạm vi và thời gian báo cáo nghiên cứu (để hỗ trợ và/hoặc tránh can thiệp vào các hoạt động tổ chức xã hội mà họ có thể đang triển khai). Ngoài ra, tôi đã nhiều lần kiểm tra sự đồng thuận trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin của cộng tác viên nghiên cứu hoặc người tham gia tiến hành đồng ý để xác nhận rằng họ vẫn tiếp tục mong muốn tham gia vào nghiên cứu này. Tương tự, tôi cũng đã nhiều lần kiểm tra sự đồng thuận với việc sử dụng hình ảnh chụp, đặc biệt là khi các cá nhân làm việc với tôi với tư cách là người mẫu ký hiệu (như đã thấy trong cuốn sách này). Việc kiểm tra sự đồng thuận nhiều lần như vậy là do cân nhắc rằng cuộc sống của mọi người có thể thay đổi, khiến họ thay đổi ý định về việc sử dụng hình ảnh của mình tùy theo hoàn cảnh hoặc sở thích của họ. Điều này đặc biệt quan trọng trước khi xuất bản, chẳng hạn như với cuốn sách này, tôi đã gửi bản đồng thuận với việc sử dụng ảnh lần cuối đến các người mẫu ký hiệu vào mùa hè năm 2014; Sau đó, tôi đã liên hệ lại với nhóm thứ hai qua Skype hoặc email vào năm 2015 và 2016 khi cuốn sách sắp xuất bản).
Các yếu tố và quy ước về dịch thuật
Như tôi đã nêu trong phần mô tả phía trên về các phương pháp và đặc quyền của nhà nghiên cứu, các yếu tố liên quan đến dịch thuật và trao đổi về dịch thuật là một phần quan trọng trong các cuộc trao đổi hàng ngày và liên quan đến nghiên cứu. Ngoài nội dung chuyên sâu về dân tộc ký, các yếu tố về dịch thuật góp mặt trong mọi giai đoạn của nghiên cứu này và vẫn còn tiếp tục khi tôi viết cuốn sách này. Apter đã nghiên cứu về các sản phẩm văn hóa đại chúng và phổ cập “được biết đến trên toàn cầu, trong khi những ấn phẩm khác thì không” (2001, trang 2). Những thảo luận của Apter là phù hợp với những cân nhắc quan trọng sau đây: (1) uy tín quốc tế của cá nhân tôi trong môi trường Việt Nam; và (2) việc sản xuất một số tài liệu dân tộc ký nhất định chứ không phải những tài liệu khác, mối quan tâm của ngành xuất bản học thuật đối với những tài liệu đó và việc lưu hành trong giới học thuật và phi học thuật nói tiếng Anh, cũng như việc dịch và giới thiệu đến các khán giả Việt Nam và NNKH TP.HCM.
Một trong những vấn đề tôi gặp phải trong nghiên cứu này là sự hiện diện ngày càng tăng của Ngôn ngữ ký hiệu Hoa Kỳ (ASL), ban đầu là thông qua du lịch tại TP.HCM, sau đó là sự gia nhập của các công ty lữ hành nước ngoài tổ chức các tour du lịch sử dụng ASL tại Việt Nam (Cooper, 2015). Sự phổ biến của ASL giống nhưng cũng có sự khác biệt so với sự phổ biến rộng rãi của các trường ngôn ngữ châu Âu ở Việt Nam (xem hình i .3).27
Trong chương 5, tôi thảo luận về sự phổ biến của Ngôn ngữ ký hiệu Hoa Kỳ (ASL) thông qua các con đường giáo dục. Chương 6 sau đó thảo luận về các yếu tố tạo điều kiện cho sự phổ biến của ASL trong lĩnh vực thị trường liên quan đến người khuyết tật. Các ngôn ngữ ký hiệu tiếng Việt (NNKH Việt Nam) còn tiếp tục bị gạt ra ngoài lề trong lĩnh vực giáo dục, việc làm và các lĩnh vực xã hội và kinh tế khác bao nhiêu thì các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của ASL còn cạnh tranh được với sức mạnh và nguồn lực hạn chế mà người sử dụng NNKH TP.HCM (và các NNKH Việt Nam khác) có được bấy nhiêu.
Liên quan đến các mối quan tâm về đạo đức liên quan đến nghiên cứu và phân tích nghiên cứu này, lựa chọn của tôi về các bài tường thuật dựa trên NNKH TP.HCM, các văn bản in và các yếu tố ký hiệu học khác nằm trong nghiên cứu này (ví dụ: áp phích của chính phủ, trang trình chiếu từ bản trình bày PowerPoint, video - chụp ảnh màn hình, ảnh chụp các mô hình dấu hiệu) là một “quá trình thuần hóa” như các nhà lý thuyết dịch thuật đương thời lập luận (Venuti, 2000, trang 468). Do đó, tất cả các “ngôn bản” đang được xem xét trong cuốn sách này “luôn luôn được tái tạo theo một bộ giá trị khác nhau và luôn thay đổi tùy theo các ngôn ngữ và nền văn hóa khác nhau” (sđd., P. 470) - cụ thể là của riêng tôi. Lập luận của Venuti về “đạo đức của địa điểm” (ethics of location) trong công việc dịch thuật liên quan đến “các nền văn hóa yếm thế” (subordinate cultures) rất hữu ích cho nghiên cứu này ở chỗ nó đề xuất một phương pháp dân tộc ký cũng như sự công nhận trên phương diện dịch thuật về sự khác biệt về quyền lực xuyên suốt cả các địa điểm sản xuất ngôn bản, ngôn bản, và các bản dịch của các ngôn bản (Venuti, 1998, trang 186; xem thêm “thái độ dịch thuật” trong Tagore, 2006, trang 81).
Hình i.3. Các trường Ngoại ngữ, TP.HCM.
Đạo đức về địa điểm cũng hữu ích trong việc lý thuyết hóa các mối liên hệ giữa nhà nước, NNKH TP.HCM và nhận thức về cách sử dụng cơ thể của người Điếc, ở chỗ nó giả định nhà nước không có hình tướng cố định mà nhà nước chỉ có thể “nhìn thấy được” một phần dựa trên những cách thức mà những người tương tác giao tiếp trong các bối cảnh cụ thể và hoàn cảnh biểu hiện của những gì họ tạo ra. Do đó, chúng ta có thể lý thuyết hóa cách thức mà các ngôn ngữ cụ thể và các phương thức biểu hiện của chúng đóng góp vào việc tạo ra và cảm nhận định tính về các địa điểm thông qua thực hành ngôn ngữ, chẳng hạn như việc các ngôn ngữ nói mất vị trí là ngôn ngữ chuẩn tắc khi NNKH TP.HCM được sử dụng. Trong cuốn sách này, tôi “dịch” các câu chuyện phỏng vấn, các ngôn bản đạng bản in và các thực hành biểu hiện.
Về cách trình bày các ngôn bản ngôn ngữ, trong ngôn ngữ học ngôn ngữ ký hiệu không có cách quy ước nào để biểu thị các phát ngôn được ký hiệu và ngôn ngữ ký hiệu bởi vì chúng không có dạng chữ viết. Trong phạm vi có thể, tôi sẽ trình bày cả phần tường thuật và ngôn bản bằng ngôn ngữ gốc và cả phần dịch sang tiếng Anh và/hoặc tiếng Việt. Tất cả các phần dịch đều do tôi thực hiện trừ khi có ghi chú khác. Các khái niệm trong NNKH TP.HCM thể hiện bằng những người ra ký hiệu NNKH TP.HCM (xuất hiện xuyên suốt trong cuốn sách).
Vì mục đích học thuật trong ngôn ngữ viết, các khái niệm có thể được chuyển thể sang ngôn ngữ viết bằng cách sử dụng các thuật ngữ trong ngôn ngữ viết liên quan. Ví dụ: khái niệm “mẹ” có thể được biểu thị là MẸ, nhưng cũng khái niệm này trong ASL lại dùng ký hiệu khác. Tuy nhiên, cách làm này không phải là không có vấn đề. Nếu việc chuyển thể sang ngôn ngữ viết sử dụng các từ của ngôn ngữ đích nhưng lại dùng ngữ pháp của ngôn ngữ nguồn thì người đọc chưa hiểu rõ có thể cho rằng ngôn ngữ nguồn không đúng ngữ pháp. Trong bối cảnh toàn thông tin về ngôn ngữ bằng ký hiệu và ngôn ngữ học ngôn ngữ ký hiệu trên thế giới là rất ít ỏi, cách làm này có thể sẽ củng cố thêm những quan niệm sai lầm về ngôn ngữ bằng ký hiệu. Vì vậy, tôi không chuyển thể sang ngôn ngữ viết NNKH TP.HCM; thay vào đó tôi dịch chúng.
Cũng không có quy tắc nào về việc lựa chọn và/hoặc mô tả các thực hành hiện thân (các thực hành sử dụng cơ thể - embodied practices). Tuy nhiên, một số phương pháp hữu ích để phiên âm các đặc điểm cơ thể và chuyển động của cơ thể, chẳng hạn như ký hiệu Laban, được các nhà dân tộc học nghiên cứu về khiêu vũ sử dụng rộng rãi. Theo các điều khoản ghi trong đồng thuận trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin, tôi cho phép bản thân được quan sát những người tham gia. Tôi đã không ghi hình nhiều sự kiện sử dụng NNKH TP.HCM. Tuy nhiên, tôi đã ghi hình các cuộc phỏng vấn và hội thảo phiên dịch NNKH TP.HCM-Việt Nam (một địa điểm công cộng), và nghiên cứu các video này kỹ lưỡng để tìm hiểm những thực hành dựa trên tương tác này. Tuy vậy, trong nghiên cứu này, tôi không nghiên cứu một cách có hệ thống các cử chỉ, tư thế hoặc kiểu chuyển động của người tương tác. Thay vào đó - để tìm hiểu xem người ta ứng xử với việc sử dụng NNKH TP.HCM và các cách sử dụng cơ thể khác như thế nào (ví dụ: kỷ luật, điều tiết, đánh giá tích cực và tiêu cực) —Tôi đã sử dụng một góc nhìn rộng với các tình huống ra ký hiệu, nói, chỉ tay, nhìn chằm chằm, và các thực hành sử dụng cơ thế khác khi mọi người giao lưu (ví dụ: vỗ vai để thu hút sự chú ý của người đó), cũng như sự phối hợp các biểu đạt ngôn ngữ xã hội giữa những người tương tác hoặc những người được những người tham gia nghiên cứu đề cập.28
Bố cục của cuốn sách
Trong chương 1, tôi tìm hiểu mối liên hệ giữa các sáng kiến giáo dục của nhà nước và các hệ tư tưởng ngôn ngữ ở Việt Nam để chỉ ra những nhận định của người nghe về khả năng (hoặc thiếu khả năng của người Điếc trước nay (1) ảnh hưởng như thế nào đến các tiêu chí để tham gia vào các cơ quan nhà nước, (2) đóng góp như thế nào vào các đàm luận về những khả năng khác biệt của những người có đặc quyền nghe - nói, và (3) đã tạo điều kiện cho việc kỷ luật những người sử dụng NNKH TP.HCM (và các cách sử dụng cơ thể khác) như thế nào cả trong và ngoài các thể chế của nhà nước theo định hướng phát triển và hiện đại hóa. Quá trình tìm hiểu này bắt đầu với các dự án xây dựng năng lực tập thể xã hội chủ nghĩa và chống lại chủ nghĩa thực dân, trong đó các tuyên bố về ngôn ngữ được nâng lên cùng với tuyên bố về sự đoàn kết và chủ quyền quốc gia. Sau đó, tôi xem xét các quyết định chính trị và kinh tế được khởi xướng trong thời kỳ chống thực dân có liên quan như thế nào và đã chuyển biến như thế nào trong giai đoạn Đổi mới chính trị và kinh tế. Việc nghiên cứu lịch sử mà tôi thực hiện trong chương này chủ yếu liên quan đến các tổ chức giáo dục và các đàm luận về ngôn ngữ và cơ thể. Mặc dù có đề cập đến các sự kiện trong lịch sử trước đây của Việt Nam, nhưng chương này tập trung vào các sự kiện từ năm 1986 đến nay. Việc này cho phép tôi tìm ra những cách thức chủ yếu mà các thể chế và hệ tư tưởng nhà nước tác động đến việc phân loại công dân Việt Nam vào nhóm gương mẫu hoặc có vấn đề.
Chương 2 nghiên cứu sự xuất hiện của tư tưởng nhà nước và các nghiên cứu khoa học chính trị và xã hội nhìn nhận tư tưởng này như thế nào: Tư tưởng nhà nước ban đầu được áp dụng nhưng sau đó đã bị loại hoặc bỏ dở vì bị cho là thiếu thực chất. Trong những thập kỷ gần đây, tư tưởng nhà nước đã được hồi sinh bởi các khuôn khổ phân tích mới kết nối với ngôn ngữ, trải nghiệm con người, hệ tư tưởng và quyền lực làm cơ sở cho các mô tả dân tộc ký về nhà nước xoay quanh các tác nhân con người và các hình thức hành động xã hội, chính trị và kinh tế (tức là đã nằm trong trong các trường tư tưởng, các biểu hiện hiện thân được ưa thích và các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến định vị và tái tạo thứ bậc xã hội ở Việt Nam).
Chương 3 mở đầu với phần mô tả về hệ thống nhà nước Việt Nam để thảo luận về sự phân tầng đương đại, hay giai đoạn chuyển đổi xã hội chủ nghĩa do nhà nước lãnh đạo, và những tác động của nó đối với quá trình tái cơ cấu xã hội và giáo dục. Tôi xem xét sự phân tầng này trong mối tương quan với việc xã hội hóa giáo dục. Sau đó, tôi giới thiệu khung Blommaert (2005) về mô tả các quy trình của nhà nước và — dựa trên các công thức của Kleinman (1988) và Leap (2011) về tường thuật hồi tưởng — Tôi tìm hiểu những nhận định của người Điếc trong nghiên cứu về các quy định về ngôn ngữ bằng ký trong các trường chuyên biệt sử dụng lời nói và các phản hồi của giáo viên. Phần còn lại của chương giới thiệu ba bối cảnh nghiên cứu chính: (1) năm điểm trường chuyên biệt giáo dục cho người Điếc trong hoặc gần Thành phố Hồ Chí Minh; (2) Dự án Giáo dục, là địa điểm duy nhất ở miền Nam Việt Nam mà học sinh Điếc có thể theo học bậc trung học và cao đẳng/đại học; (3) Câu lạc bộ Người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh (HDC). Chương này cũng trình bày kết quả từ cuộc khảo sát của tôi về năm trường chuyên biệt, được trình bày trong ba bảng dữ liệu về các cuộc điều tra về học sinh và giáo viên, cũng như việc giảng dạy ngôn ngữ ở năm trường này. Ở cuối chương, tôi thảo luận về mối liên hệ giữa những thay đổi địa chính trị, kinh tế và các yếu tố liên quan đến khuyết tật tác động tích cực đến sự xuất hiện của các phạm trù xã hội mới và các cơ chế điều tiết.
Mở đầu Chương 4 là phần thảo luận về công dân tích cực, trong đó tìm hiểu khát vọng học tập của học sinh Điếc miền Nam, các rào cản đối với giáo dục và việc bị gạt ra ngoài lề trong môi trường giáo dục dựa trên lời nói; đây là nền tảng cho các chiến lược giáo dục đồng đẳng (peer learning) trong môi trường giáo dục và để điều phối các chiến lược tổ chức xã hội. Sau khi mô tả lôgic tư tưởng mà người Điếc ở miền Nam Việt Nam phải đối mặt trong thời kỳ đương đại, tôi trình bày ba phần mô tả trong đó nêu bật hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ, hệ tư tưởng và phê bình xã hội một cách chi tiết cho ba thời điểm tiêu biểu về mặt dân tộc ký: một bài học công dân tại trường chuyên biệt Hy vọng C; một bài học lịch sử thế giới trong Dự án Giáo dục; và hai cuộc họp của Câu lạc bộ Điếc Thành phố Hồ Chí Minh về việc thúc đẩy vai trò lãnh đạo xã hội của phụ nữ Điếc. Chương này kết thúc với phần thảo luận về đa ngôn ngữ và vai trò của việc thể chế hóa trong việc tái tạo các hình thức giao tiếp trôi chảy và không trôi chảy.
Chương 5 tập trung hoàn toàn vào viện trợ phát triển quốc tế và cấu trúc hệ thống phát triển quốc tế mà trong đó khuyết tật là một trong những mối quan tâm chính trong lĩnh vực phát triển trong hai thập kỷ qua. Chương này mở đầu với phần cuộc thảo luận về quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội thị trường, cụ thể là vào đầu những năm 1980, nhà nước được nhìn nhận là cách tiếp cận toàn diện để đối mặt với các vấn đề như đói nghèo sau thống nhất, kinh tế kém hiệu quả và một bức tranh ngày càng rõ ràng về mức độ khuyết tật sau chiến tranh. Khi nghiên cứu báo cáo đánh giá khuyết tật của USAID năm 2013 về Việt Nam, tôi đã chỉ ra các sai sót về phương pháp luận và phân tích của báo cáo đã ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ đối tác song phương trị giá hàng triệu đô la giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Những sai sót này không chỉ mô tả sai về tổ chức xã hội của người Điếc, phiên dịch NNKH Việt Nam-tiếng Việt và “nhu cầu” của người khuyết tật mà còn không tính đến lợi ích thực tế của các sáng kiến tổ chức xã hội của người Điếc đã đang được thực hiện. Bằng cách sử dụng dữ liệu dân tộc học gốc, tôi đánh giá nhận thức về phát triển theo định hướng khuyết tật của các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế từ góc nhìn của một nhà báo được giao phụ trách các vấn đề về người khuyết tật và và của cả mười lăm tổ chức xã hội người Điếc. Chương này cũng xem xét các kết quả đầu ra của các hoạt động phát triển quốc gia và quốc tế — các sách từ vựng ngôn ngữ ký hiệu — để lập luận rằng các sách do các tổ chức quốc tế soạn thảo không đại diện cho ngôn ngữ mà người Điếc thực sự sử dụng ở Việt Nam (vì chỉ có các từ đơn lẻ mà không có thông tin ngữ pháp về các NNKH Việt Nam để hình thành các hệ thống ký hiệu hoàn chỉnh).
Trong Chương 6, tôi cũng xem xét sự xuất hiện của cái mà tôi gọi là “thị trường khuyết tật” ở Việt Nam, trong đó coi sự khuyết tật là một cách để đảm bảo nguồn tài chính trong nước và quốc tế, những trường hợp mà ASL xâm nhập vào các doanh nghiệp Điếc Việt Nam song hành với những trường hợp xâm phạm địa chính trị mà nhà nước Việt Nam phải đối mặt. Tôi cũng nghiên cứu việc công dân Điếc tìm kiếm một vai trò quyết định, hay thực hiện quyền công dân tích cực, trong các quyết định ảnh hưởng đến cộng đồng người Điếc trên khắp đất nước - đặc biệt là sự công nhận chính thức các NNKH Việt Nam; hỗ trợ cho chính sách và quy hoạch ngôn ngữ liên quan đến (các) NNKH Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và việc làm cũng như đào tạo giáo viên NNKH Việt Nam và thông dịch viên NNKH Việt Nam-tiếng Việt có nguyện vọng; và sự công nhận và nâng cao năng lực cho các Câu lạc bộ và hội người Điếc trên khắp Việt Nam.
1. Văn Miếu Trấn Biên ban đầu được xây dựng năm 1715 và thờ Khổng Tử, nhưng sau đó đã bị quân Pháp phá hủy vào giữa thập niên 1800. Năm 2002, Văn Miếu được trùng tu tôn tạo và đổi tên, dựa trên hình mẫu của trường Văn Miếu–Quốc Tử Giám tại Hà Nội - Văn Miếu này vẫn được bảo tồn từ khi xây dựng từ năm 1070. Tất cả những ảnh trong cuốn sách này là do tác giả tự chụp, trừ khi có ghi chú khác.
2.Ngôn ngữ bằng ký hiệu (signed language) khác với ngôn ngữ ký hiệu (sign language). Tính từ “bằng ký hiệu” (signed) chỉ một loại phương thức ngôn ngữ (ví dụ: ký hiệu, nói, viết). Còn danh từ “ngôn ngữ ký hiệu” (sign language) chỉ ngôn ngữ của một cộng đồng.
3.Các chương trình truyền hình và tờ rơi nhằm nâng cao nhận thức về người khuyết tật do Dự án "Trợ giúp người khuyết tật Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010" triển khai (NCCD, 2010). Có thể nhận thức mới này đã dẫn đến việc ghi hình trong lễ kỷ niệm "310 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai"; tuy nhiên, sự kiện này và những sự kiện sau đó đã không nhận được sự chú ý trên phương diện là một trong những sự kiện đầu tiên mà người Điếc sử dụng ký hiệu xuất hiện trên truyền hình và bày tỏ quan điểm của họ thông qua phiên dịch viên tiếng Việt - NNKH TP.HCM.
4. Lưu ý rằng trong cuốn sách này, tôi sử dụng từ viết tắt HCMSL [trong bản tiếng Anh], khác với cách viết tắt trong các ấn phẩm trước đây, bao gồm ấn phẩm cá nhân (Cooper 2011, 2014), ấn phẩm chung (Cooper và Nguyễn 2015), cũng như Woodward (2003) và Woodward, et al. (2004), và Woodward và Nguyễn (2012). Sự thay đổi này dựa trên công việc đang triển khai với những người đồng nghiên cứu người Điếc Việt Nam, họ thích sử dụng từ viết tắt tiếng Anh HCMSL do cách viết tắt này tương đồng với từ viết tắt trong tiếng Việt của Thành phố Hồ Chí Minh: Tp. HCM (Thành phố Hồ Chí Minh), và cũng tương đồng với từ viết tắt cho ngôn ngữ ký hiệu Hà Nội (Hà Nội Sign Language - HNSL) và ngôn ngữ ký hiệu Hải Phòng (Hải Phòng Sign Language - HPSL) (đó là không thêm chữ 'C' viết tắt của 'city' (thành phố) trong tên viết tắt). Xem ví dụ về việc sử dụng HCMSL trong Cooper và Nguyễn (2017)
5. Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam 2006 cho thấy có dưới 1% thanh niên ở độ tuổi đến trường "gặp khó khăn khi nghe" ở mức độ nặng nhất (khoảng 40.000 người) được đi học hoặc tìm được việc trong thị trường lao động ở bất kỳ cấp độ nào (GSO, 2006, phần 4.25). Cuộc khảo sát này toàn diện hơn các khảo sát trước đó và là văn bản đầu tiên có ghi chép về tình trạng khuyết tật. Bổ sung vào bản dịch: Năm 2016, Việt Nam lần đầu tiên tiến hành Điều tra Quốc gia về người khuyết tật, bản báo cáo được công bố năm 2018, với kết quả tương tự với người gặp khó khăn về nghe.
6. Các điều kiện cơ sở vật chất được đề cập trong bài "Cần quan tâm nhiều hơn đến giáo dục cho người tàn tật" (Bich, 2009). Chất lượng giáo dục được đề cập trong bài "Trong một thế giới không có âm thanh: Giáo viên học từ học sinh” (Nga, 2010)
7. Khái niệm vượt qua khó khăn bắt nguồn từ những câu chuyện đạo lý như Truyện Kiều hay còn gọi là Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du (1766–1820), trong đó nhân vật chính là nàng Kiều đã vượt qua số phận, hay 'mệnh', những khó khăn trở ngại đến với cô do cái 'tài' hiếm gặp mà cô sở hữu. Trong ngôn ngữ đương đại, mệnh và tài được thay thế bằng (số) phận và tài, như trong cách nói mỗi người có một số phận, và chúng ta phải vượt lên số phận (Nguyễn, trao đổi cá nhân). Malarney (2011) cũng viết rằng, trong giai đoạn chống chủ nghĩa thực dân và giai đoạn đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa, 'vượt qua khó khăn' nghĩa là thoát khỏi ách thống trị của nước ngoài khiến phần đông dân số không biết đọc biết viết.
8.Trung tâm Khuyết tật và Phát triển (Disability Research and Capacity Development, trước đây có tên là Disability Resource and Development) tại TP. Hồ Chí Minh do và vì người khuyết tật đã và đang lưu trữ các bài báo và nghiên cứu về vượt qua rào cản xã hội và các chủ đề liên quan. Xem http://drdvietnam.org
9. Việt Nam phê chuẩn CRPD vào ngày 5/2/2015.
10.Từ “ngôn ngữ ký hiệu” xuất hiện một lần trong Luật Người Khuyết tật 2020. Đoạn 4, Điều 27 trong phần về giáo dục người khuyết tật quy định rằng “người khuyết tật nghe nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu”.
11. Một trong số những lớp học ngôn ngữ ký hiệu do Bộ GD&ĐT đồng tài trợ đó là khóa học do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam - Trung tâm nghiên cứu Giáo dục Đặc biệt và Hội Người khuyết tật tổ chức vào tháng 10 - 12/2014 tại quận Thanh Xuân, Hà Nội. Xem http://thanhxuan.gov.vn/portal/home/print.aspx?p=1542
12. Năm 2010, Bộ GD&ĐT thành lập một dự án tương tự như DAGD tại Hà Nội, trong đó giảng dạy chương trình từ lớp 6 đến lớp 9 bằng ngôn ngữ ký hiệu Hà Nội (HNSL). Năm 2015, Bộ GD&ĐT mở rộng chương trình giáo dục lên cấp 3, theo đó dạy các lớp từ lớp 10 đến lớp 12 tại Trường Cao đẳng Sư phạm Trung Ương, Hà Nội.
13. Theo quy định của nhà nước, ít nhất một nửa trong số 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương có CLB người Điếc thì mới đủ điều kiện để được chính thức công nhận.
14. Ý tưởng này ngày càng phổ biến trong suốt những năm 1800 và đã đạt đến đỉnh điểm tại Đại hội Quốc tế lần thứ hai về Giáo dục cho người Điếc tổ chức ở Milan, Ý năm 1880, trong đó những nhà giáo dục đã bỏ phiếu để cấm sử dụng ngôn ngữ ký hiệu trong giáo dục người Điếc trên toàn thế giới. Để đảm bảo việc bỏ phiếu này được thành công, những giáo viên Điếc tham dự Đại hội đã bị loại ra khỏi kỷ yếu và bị cấm bỏ phiếu. Ngoài Davis (1995), một số học giả đã đề cập đến lịch sử và di sản của “Milan” (ví dụ, Branson & Miller, 2002; Ladd, 2003; Lane, 1984; Van Cleve & Crouch, 1989). Xem thêm “Deaf People and Human Rights,” (Người Điếc và Quyền con người) của Haualand và Allen (2009), báo cáo gửi Liên đoàn Người Điếc Thế giới.
15. Ghi chú về việc phiên âm NNKH TP.HCM: theo các quy ước ngôn ngữ bằng ký hiệu, các ký hiệu được chuyển sang dạng viết bằng cách dùng các từ viết hoa không có dấu gạch ngang, và các các từ được đánh vần bằng tay sẽ được chuyển thành từ viết hoa với dấu gạch ngang giữa các chữ cái riêng lẻ. Tôi cũng sử dụng dấu ngoặc dọc để chỉ ra rằng các khái niệm được tạo ra bằng ngôn ngữ bằng ký hiệu. Trường hợp người ra ký hiệu cũng chỉ ra một từ tiếng Việt hoặc cụm từ cụ thể mà họ kết nối với khái niệm đã ra ký hiệu, tôi đưa từ / cụm từ đó, sau phần dịch tiếng Anh.
16. Xem mô tả về các phương ngữ ký hiệu và chuẩn hóa tại Việt Nam tại Woodward (2003) và thảo luận về chính sách và thực tiễn ngôn ngữ bằng ký hiệu tại Woodward and Nguyễn (2012).
17. Tôi sử dụng từ người tương tác (interactant) theo Alexandra Jaffe (1999, 2009) thay vì dùng các từ miêu tả khác như từ "người đối thoại" (interlocutor). Từ "người tương tác" là một thuật ngữ rộng trong đó nhấn mạnh đến những đặc điểm của các tương tác, trong đó không chỉ đơn thuần là ký hiệu gì hay nói gì mà còn bao gồm cách thức mọi người sử dụng cơ thể và bối cảnh tức thời để định hình các cuộc trao đổi ngôn ngữ học xã hội.
18. Các học sinh DAGD đã biểu diễn toàn bộ bài múa (khoảng 20 phút) vài lần cho các buổi lễ khác nhau tổ chức tại DAGD. Trong chương trình trên kênh VTV9, các em biểu diễn bài múa rút gọn dài 5 phút trong một chương trình tên là “Giới hạn là bầu trời” nhân dịp kỷ niệm Ngày bảo vệ, chăm sóc người tàn tật Việt Nam (Ngày 18/4/2009). Chương trình này đã nhận được sự quan tâm lớn của các cơ quan báo chí và được đưa tin trên báo Dân Trí (Tùng Nguyên, 2009).
19. Một trong những đồng giám đốc của DAGD đã trình bày tại hội thảo này, còn người đồng giám đốc còn lại hỗ trợ điều phối sự kiện và họ đã làm việc xuyên cuối tuần.
20. Nhờ tham gia vào các hoạt động này mà tôi biết được các học sinh, phần lớn trong số họ đã trên 18 tuổi. Tuy nhiên, để đảm bảo tất cả những người được phỏng vấn đáp ứng được những tiêu chí nghiên cứu của tôi và quy tắc của Hội đồng đạo đức (Institutional Review Board), tôi đã không phỏng vấn học sinh các trường chuyên biệt cho người Điếc.
21. NT: Thuật ngữ, trong ngôn ngữ học, đánh dấu (mark) chỉ trạng thái nổi bật, khác với cách thức thông thường.
22.Theo quy ước của người Điếc Việt Nam về xác định trạng thái người nghe và người Điếc, tôi sử dụng|ĐIẾC và |NGHE| để chỉ hai công cụ ý niệm này; tuy nhiên, các hình thái ngôn ngữ học và văn hóa xã hội và ý nghĩa của những công cụ này không được định nghĩa ở đây. Thay vào đó, tôi đề cập đến các hình thái và ý nghĩa này xuyên suốt cuốn sách tùy thuộc vào tình huống liên quan. Trong ngôn ngữ tiếng Việt, từ “người nghe” không phải là một khái niệm phổ biến. Trên các phương tiện thông tin đại chúng và các trao đổi thông thường, những người NGHE| thường chỉ những người không có khuyết tật có thể nhìn thấy là bình thường [normal]. Những người làm việc với người Điếc và người nghe kém thường sử dụng cả hai từ bình thường hoặc người nghe (nghĩa đen là “người” + bổ ngữ “nghe”) để chỉ những người nghe và nói được.
23. Ngữ pháp không sử dụng tay (như biểu cảm trên khuôn mặt) cho các câu hỏi Ai, cái gì, khi nào, ở đâu và tại sao là phổ biến trong các ngôn ngữ bằng ký hiệu.
24. Tương tự như các tên đặt trong phần giới thiệu, tất cả các tên bằng ký hiệu trong nghiên cứu này là hư cấu. Nhìn chung, tên ký hiệu là tham chiếu đặc thù đến một người, có được thông qua tương tác xã hội với các thành viên trong gia đình người Điếc, người lớn tuổi hoặc bạn cùng trang lứa và không có phiên bản bằng chữ viết hoặc tiếng nói. Ở Việt Nam, các tên ký hiệu có thể gồm những tham chiếu đến các đặc điểm cơ thể hoặc tính cách của một người, cũng như vai trò của họ trong gia đình hoặc xã hội. Do đó, một tên ký hiệu có thể chỉ "nốt ruồi trên má" hoặc xuất hiện kết hợp với một chữ cái trong bảng chữ cái chính tả hoặc dấu hiệu được sử dụng để mô tả một kỹ năng hoặc công việc cụ thể. Ở miền Nam Việt Nam, các ký hiệu tên cũng có thể được kết hợp với tham chiếu phân cấp độ tuổi khi nói về vị trí của người đó trong gia đình dựa trên độ tuổi (ví dụ: | GIA ĐÌNH TÔI CÓ BỐN NGƯỜI, BỐ MẸ TÔI, ANH TRAI VÀ TÔI, VÀ EM ÚT (EM NHỎ NHẤT). TÊN TÔI LÀ KÝ HIỆU G TRÊN NỐT RUỒI TRÊN MÁ. TÊN TÔI ĐÁNH VẦN BẰNG TAY LÀ G-I-A-N-G|.
25. Trong số khoảng 25 giáo viên trường chuyên biệt tôi đã gặp, khoảng bốn giáo viên sử dụng thành thạo ký hiệu. Bốn giáo viên này đã sử dụng cái mà tôi gọi là tiếng Việt sử dụng ký hiệu hỗ trợ (nói và ra ký hiệu theo trật từ tự tiếng Việt). Khi điều phối hội thảo phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, các giáo viên NNKH TP.HCM từ DAGD đã sàng lọc trình độ ngôn ngữ ký hiệu của những người đăng ký tiềm năng. Theo đánh giá của họ thì một số giáo viên trường chuyên biệt có thể giao tiếp bằng cách sử dụng các ký hiệu mà không cần nói; tuy nhiên, không ai trong số họ sử dụng NNKH TP.HCM.
26.Để xem thêm thảo luận về đặc quyền nghe, xem Facundo Element (2012), Fernandes & Myers (2010) và Ladd (2003).
27. Đi theo hướng đông bắc ra khỏi thành phố về phía Xa lộ Hà Nội, vòng tròn giao thông trong hình i.3 tạo thành một vòng bao gồm gần như đầy đủ các trường ngoại ngữ. Những trường khác như vậy mọc lên khắp thành phố và nông thôn. Hai trường bên trái dạy các ngôn ngữ Đông Âu, còn trường bên phải dạy 5 phương ngữ tiếng Anh (Anh, Mỹ, Úc, Canada và Singapore).
28. Nghiên cứu trong tương lai sẽ được hưởng lợi từ nghiên cứu sâu sắc các thực hành ngôn ngữ và thực hành hiện thân (embodiment) của người Việt Nam cũng như mối liên hệ giữa các thực hành đó của người Điếc với thực hành của những người không Điếc (cả người ra ký hiệu và không ra ký hiệu) ở các hoàn cảnh cụ thể.