Skip to main content

Deaf to the Marrow: Lời cảm ơn

Deaf to the Marrow
Lời cảm ơn
    • Notifications
    • Privacy
  • Project HomeĐiếc tủy
  • Projects
  • Learn more about Manifold

Notes

Show the following:

  • Annotations
  • Resources
Search within:

Adjust appearance:

  • font
    Font style
  • color scheme
  • Margins
table of contents
  1. Điếc tủy
  2. Mục lục
  3. Lời mở đầu
  4. Giới thiệu về ấn bản tiếng Việt
    1. Viện Hành động vì Phát triển Cộng đồng
    2. Nguyễn Thị Lan Anh
    3. Ms. Nguyen Thi Lan Anh
    4. Chị Nguyễn Thị Lan Anh
    5. Lê Trang Nhung
  5. Lời cảm ơn
  6. Các từ viết tắt
  7. Các khu vực nghiên cứu ở Việt Nam
  8. Giới thiệu
    1. Giáo dục cho người Điếc và tổ chức cộng đồng cho người Điếc tại Việt Nam: Những địa điểm hình thành cơ cấu chính trị xã hội
      1. Tư tưởng ngôn ngữ, Trường chuyên biệt, và Hành động của những nhà tổ chức xã hội cho người Điếc
    2. Giáo dục dưới góc độ sự tham gia của công dân: Thông thạo ngôn ngữ bằng ký hiệu và quyền tự quyết
    3. Ý nghĩa của sự chủ động tham gia và đóng góp
    4. Phương pháp nghiên cứu và Mối quan tâm về Đạo đức
      1. Sự tham gia xã hội dựa trên việc phiên dịch NNKH
    5. Phương pháp nghiên cứu và các mối quan tâm về đạo đức
      1. Nghiên cứu, Tiếp thu ngôn ngữ và Xã hội hóa
      2. Quyền tiếp cận và các đặc quyền khác của nhà nghiên cứu
      3. Các yếu tố và quy ước về dịch thuật
      4. Bố cục của cuốn sách
  9. Chương 1. Lịch sử và bối cảnh kinh tế chính trị của ngôn ngữ và khả năng đọc viết
    1. Giới thiệu về các địa điểm nghiên cứu, ngôn ngữ và chính trị ngôn ngữ
    2. Tìm về lịch sử Ngôn ngữ và Khả năng đọc viết trong chương trình giáo dục người Điếc Việt Nam đương đại
    3. Nghiên cứu quá trình hiện đại hóa quốc gia, ngôn ngữ và giáo dục
      1. Các diễn ngôn về hiện đại hóa và hiện đại hóa ngôn ngữ
      2. Quản lý ngôn ngữ và khả năng đọc viết ở Việt Nam
      3. Thời kỳ chống thực dân và Hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa sơ khai
    4. Hiện đại hóa trong bối cảnh thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phân tầng giáo dục
    5. Kết luận
  10. Chương 2. Tầm quan trọng của ngôn ngữ ký hiệu và sự hình thành Nhà nước
    1. Tranh luận về Nói với phát ngôn và ngôn ngữ ký hiệu
    2. Chủ nghĩa tự do phương Tây, Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học và sự dịch chuyển xã hội của cơ thể và ngôn ngữ
      1. Khoa học xã hội Hướng tới và rời bỏ các Quốc gia, Ngôn ngữ và ngôn ngữ cơ thể
    3. Tăng cường lý thuyết về Nhà nước: Tầm quan trọng của Mô tả Dân tộc học
      1. 4 phương pháp cho chính phủ/Nhà nước: Tầm quan trọng của ngôn ngữ và cơ thể tới phân tích chính trị xã hội
    4. Kết luận
  11. Chương 3. Giáo dục cho người Điếc và Tổ chức xã hội cho người Điếc: Các địa địa điểm hòa nhập và loại trừ xã hội
    1. Sự hình thành Nhà nước, Giáo dục, các tổ chức của Người Điếc và Quan niệm về Người khuyết tật ở Việt Nam
      1. Địa lý chính trị, Kinh tế, Khuyết tật: Sự điều chỉnh của Nhà nước về các Tình trạng Đặc biệt
    2. NGU NGỐC|, |ĐIÊN RỒ|, |LƯỜI BIẾNG|, và |ĐỒNG TÍNH|: NNKH TP HCM và ngoại hình như là khêu gợi xã hội
    3. Giới thiệu về Ba bối cảnh nghiên cứu chính và hàm ý cho sự hình thành chính trị xã hội
      1. Các trường Giáo Dục Đặc Biệt cho người Điếc
      2. Kết quả của các trường giáo dục đặc biệt cho trẻ Điếc
      3. Dự án Giáo Dục
      4. CLB người Điếc TP.HCM
    4. Bản sắc xã hội-ngôn ngữ mới nổi và chính trị xã hội
    5. Kết luận
  12. Chương 4. Là người Việt Nam và Điếc Tủy
    1. Công: Khát vọng giáo dục, Chiến lược học tập đồng đẳng và tổ chức vì sự thay đổi xã hội của người Điếc Công là một trong những giáo viên NNKH TP.HCM đầu tiên của tôi, và hiện vẫn dạy tôi học. Những câu chuyện Công chia sẻ với tôi cho thấy những ảnh hưởng của hệ tư tưởng ngôn ngữ đối với việc thiết kế hệ thống giáo dục, khát vọng học hành cũng như các sáng kiến thay đổi xã hội của người Điếc1. Những câu chuyện này cũng minh họa bản chất của việc xã hội hóa người Điếc và các chiến lược học tập đồng đẳng nhằm thúc đẩy việc tiếp thu ngôn ngữ tự nhiên, bản sắc ngôn ngữ xã hội của người Điếc và sự hình thành chính trị xã hội của người Điếc. Khi Công lên mười tuổi, bố mẹ cho anh vào học tại trường Xã Đàn, Hà Nội. Tại thời điểm năm 1988, Xã Đàn là trường duy nhất dành cho học sinh Điếc ở thủ đô2. Sau ba năm học, cha mẹ Công không hài lòng với kết quả học tập của anh. Công giải thích: “Thầy cô giáo ở trưởng ít dùng ký hiệu, chủ yếu nói tiếng Việt để giảng bài. Một số học sinh dùng ký hiệu với n
    2. Tương tác ngôn ngữ tự nhiên dưới góc độ sự tham gia tích cực của công dân
    3. Quyền tự quyết về ngôn ngữ và đặc điểm xã hội của địa điểm nghiên cứu
    4. Ba bức tranh: Sử dụng ngôn ngữ, tư tưởng và phản biện xã hội trong các lớp học của trường chuyên biệt và dự án giáo dục và tại các buổi họp của câu lạc bộ người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh
      1. Lớp học tại trường chuyên biệt: Một buổi học về Giáo dục Công dân
      2. Lớp học tại Dự án Giáo dục: Tiết học về một bài học lịch sử
      3. Các buổi sinh hoạt của CLB Người Điếc TP. Hồ Chí Minh: Hướng đến mục tiêu thay đổi xã hội
    5. Đa ngôn ngữ: Thể chế hóa việc [Sử dụng Ngôn ngữ] Thông thạo và Không thông thạo
    6. Kết luận
  13. (Untitled)
  14. Chương 5. Người Điếc bị gạt ra ngoài lề xã hội sau thống nhất, thay đổi xã hội do người Điếc dẫn dắt và phát triển hướng đến người khuyết tật
    1. Chuyển đổi thị trường-xã hội chủ nghĩa
      1. Các vấn đề sau thống nhất và tiếp xúc xuyên quốc gia
    2. Cơ sở về Ngành Phát triển liên quan đến Người khuyết tật của Việt Nam
    3. Trong bóng tối của sự Khuyết tật: Chuẩn hóa Ngôn ngữ và sự Tự quyết định Tập thể của người Điếc
    4. Viện trợ Từ thiện Quốc gia, Phát triển Quốc tế liên quan đến Người khuyết tật và Mục tiêu Xã hội cho người Điếc: Công bằng, không phải Từ thiện
    5. Kết luận
  15. Chương 6. Tư cách công dân dựa trên NNKH TP.HCM và tương lai thị trường xã hội chủ nghĩa: Tương tác trong môi trường khuyết tật
    1. Nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tại Việt Nam
    2. Hồi sinh Chủ nghĩa Truyền thống: Khi người Điếc là lao động chân tay
      1. Tiếp thị Café và Kiểm duyệt: Bức họa về sự kiểm soát của truyền thông đối với nhân viên Điếc và những vị khách quen tại Café Lặng
    3. |ĐIẾC| hay |KHIẾM THÍNH|: Các điều khoản ưu đãi và các diễn thuyết được nhà nước công nhận
    4. Tổ chức xã hội của người Điếc và Quyền tự quyết trong nền kinh tế nhấn mạnh đến tình trạng khuyết tật
      1. Phiên dịch NNKH TP.HCM-tiếng Việt
      2. Hội Thảo: Phiên dịch viên Ngôn ngữ ký hiệu thành phố Hồ Chí Minh
      3. Giảng dạy NNKH TP.HCM và sự công nhận của Nhà nước
      4. Sự công nhận của Nhà nước đối với Câu lạc bộ Người Điếc Thành phố Hồ Chí Minh và các Câu lạc bộ và Hội người Điếc trên toàn quốc
    5. Sự tham gia của Nhà nước Việt Nam thông qua Quyền Công dân Điếc Tích cực
    6. Kết luận
  16. Chương 7. Kết luận
  17. Tài liệu tham khảo

Lời cảm ơn

"Uống nước nhớ nguồn.

[Drinking water, remember the source.]

Tục ngữ Việt Nam

Đã có nhiều người đóng góp vào nghiên cứu trong cuốn sách này đến mức tôi không thể kể hết từng cá nhân. Mỗi cuộc trò chuyện, mỗi góc nhìn và cảm nhận, đã dạy tôi rất nhiều - cũng như những lần tôi được hướng dẫn cách sử dụng Ngôn ngữ ký hiệu Hồ Chí Minh (NNKH TPHCM) một cách trực tiếp và ngẫu nhiên, và khi người Điếc Việt Nam mô tả về sở thích và cách thức sử dụng ngôn ngữ và hoạt động xã hội của họ. Những tương tác này cũng giúp tôi hiểu rõ hơn về những giả định của mình, đặc biệt là những giả định liên quan đến các yếu tố lịch sử đã và đang định hình việc sử dụng ngôn ngữ bằng ký hiệu ở những địa điểm và thời điểm cụ thể, cách mọi người sống và thể hiện bản sắc chẳng hạn như |ĐIẾC| và |NGHE|, và những bản sắc đó thường khá khác biệt so với cách thức mà mọi người giao tiếp xã hội và tổ chức cuộc sống hàng ngày của họ. Những tương tác này giúp tôi ghi nhận tầm quan trọng của ngôn ngữ theo nhiều cách thức khác nhau và tầm quan trọng hữu hình của ngôn ngữ đối với các mối quan hệ xã hội và sự chuyển đổi xã hội.

Với những người Điếc và không Điếc ở miền Nam Việt Nam, bao gồm cả những người sử dụng hoặc không sử dụng ký hiệu, tôi nợ tất cả các bạn — các thầy cô giáo NNKH TPHCM, các đối tác nghiên cứu, những người đại diện và các tấm gương sử dụng NNKH TPHCM — một mối ân tình và đóng góp trí tuệ sâu sắc. Mặt dù có những ranh giới về văn hóa xã hội, địa lý và nguyên tắc có thể ngăn cách chúng ta, nhưng tôi vẫn muốn gọi từng người trong số các bạn là “bạn”. Nếu không có các bạn, nghiên cứu này sẽ không thể thực hiện được. Các bạn đồng nghiệp—cảm ơn rất nhiều. Tôi mong chúng ta sẽ biết nhau một thời gian dài trong tương lai, và sẽ có nhiều cơ hội để chia sẻ với nhau nữa.

Fig.1

Hình a. Bức tranh điêu khắc tại Chùa Hộ Quốc, Phú Quốc, Việt Nam. Phần này của bức tranh tường khắc họa ba thành phố: Hà Nội (Thủ đô của Việt Nam sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1975 đến nay), Huế (Cố đô, 1802–1945), và Thành phố Hồ Chí Minh (thủ đô của Nam Kỳ thời thuộc Pháp và sau này là của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, 1955–1975). Bên dưới bản đồ là dòng chữ sau: Uống nước nhớ nguồn. (Được sự cho phép của tác giả.)

Nghiên cứu được trình bày trong cuốn sách này được Trường Đại học Khoa học và Nghệ thuật của Đại học Hoa Kỳ tài trợ dưới hình thức tài trợ nghiên cứu không hoàn lại Robyn Rafferty Mathias/Mellon Grant (2007) và Học bổng Luận án Tiến sĩ (2008–2009). Sau đó, khi còn là giảng viên của Khoa Nhân học tại Đại học Mỹ, tôi cũng được trợ lý nghiên cứu của tôi là Jeanne Hanna nhiệt tình hỗ trợ trong quá trình viết bản thảo này (2014–2016). Những thời khắc khi tôi thấy lòng chùng xuống, không rõ khi nào nghiên cứu này mới hoàn tất, thì chính lòng nhiệt huyết của Jeanne dành cho chủ đề nghiên cứu của tôi, cùng với những mối liên hệ với nghiên cứu của chính cô đã truyền cảm hứng để tôi tiếp tục. Và cả sự hóm hỉnh, những bình luận chính trị sắc sảo và sự hài hước vui vẻ của cô nữa.

Tôi cũng biết ơn Hội đồng Nhân học và Giáo dục của Hiệp hội Nhân học Hoa Kỳ đã vinh danh tôi với giải thưởng Luận văn xuất sắc năm 2011. Giải thưởng này được Frederick Erickson, tác giả của cuốn Talk and Social Theory: Ecologies of Speaking and Listening in Everyday Life (Chuyện trò và Lý thuyết xã hội: Hệ sinh thái của Nói và Nghe trong Cuộc sống Hàng ngày) đề cử. Cuốn sách đã gây ấn tượng với tôi về tầm quan trọng của việc tham gia vào các tương tác vi mô và vũ đạo của giao tiếp, và giúp tôi khẳng định rằng mình đang đi đúng hướng. Tôi cũng nhận được tài trợ của một nhà tài trợ ẩn danh để tiến hành nghiên cứu sâu hơn. Nhờ vậy mà tôi có thể thực hiện nghiên cứu sau tiến sĩ vào năm 2012 và từ năm 2012 đến năm 2014, sau các chuyến công tác cho Dự án Tiếp cận Giáo dục Người Điếc Liên thế hệ (Intergenerational Deaf Education Outreach Project) - Việt Nam của Ngân hàng Thế giới do Tổ chức Phát triển mối Quan tâm Thế giới (World Concern Development Organization) thực hiện.

Tôi cũng vô cùng biết ơn những người bạn và đồng nghiệp thân yêu, những người đã đọc nhiều lần các bản nháp chương, đặt ra những câu hỏi sâu sắc, đưa ra lời khuyên bổ ích và thậm chí còn cung cấp một số tài liệu rất cần thiết: Zöe Avstreih, Bùi Bích Phượng, Paul G. Dudis, Elijah Adiv Edelman, Erin Moriarty Harrelson, Höching Jiang, Robert E. Johnson, Nikki C. Lane, William L. Leap, Siobhán McGuirk, Nguyễn Hoàng Lâm, Nguyễn Trần Thủy Tiên, Nguyễn Thị Thu, và Khadijat K. Rashid. Tôi cũng biết ơn các sinh viên-đồng nghiệp tại Đại học Mỹ và Đại học Gallaudet, họ đã tham gia trả lời các câu hỏi về ngôn ngữ trong ngữ cảnh và giúp tôi xây dựng tư duy và khiến cuốn sách dễ hiểu hơn: Tuyết Hoa Adamovich, Toska Broadway, Trisha Clifton, Aaron Graybill, Ikumi Kawamata, Emily Lahaie, Jeana Musacchia, Kate Pashby, Larissa Reed và Hancie Stokes. Cảm ơn các bạn đã chia sẻ với tôi sự nhiệt huyết đối với sự đa dạng đa ngôn ngữ và sự quan tâm đến các hình thức quyền lực và khả năng tiềm ẩn trong việc sử dụng ngôn ngữ, đại diện và hành động xã hội.

LƯU Ý: “Điếc tủy” không phải là một khái niệm được những người Điếc ở Việt Nam sử dụng. Thực ra, Điếc tủy là một khái niệm mà một người tham gia nghiên cứu sử dụng. Anh ấy dùng từ “tủy” (trong “tủy xương”) để bổ nghĩa cho từ ĐIẾC để thể hiện một giá trị được nhìn nhận theo hướng tích cực về ngôn ngữ ký hiệu, coi ngôn ngữ này là yếu tố cốt lõi của một con người. Khi nói đến tủy xương, độc giả Việt Nam thường liên tưởng đến những yếu tố tích cực về văn hóa, chẳng hạn như sức khỏe và sức mạnh. Tủy xương cũng là một nguyên liệu nấu ăn quan trọng, tạo nên hương vị ngon béo ngậy cho các món ăn Việt vốn thường được người Việt cùng nhau thưởng thức. Tủy cũng là biểu trưng cho sự thịnh vượng, do thịt (đặc biệt là thịt bò) rất khan hiếm trong và sau cuộc chiến tranh chống Mỹ, đến tận khi kinh tế khởi sắc ở những năm 1990. Trong cuốn sách này, |ĐIẾC TỦY| được sử dụng như một hình ảnh biểu tượng cho các giá trị văn hóa của Người Điếc Việt Nam, những người tự hào về di sản văn hóa Điếc của họ và tự hào rằng ngôn ngữ ký hiệu của họ là một phần quan trọng trong bối cảnh xã hội Việt Nam rộng lớn hơn.

Annotate

Next Chapter
Các từ viết tắt
PreviousNext
© 2017 by Gallaudet University All rights reserved
Powered by Manifold Scholarship. Learn more at
Opens in new tab or windowmanifoldapp.org