Chương 7. Kết luận
Chúng ta không bao giờ chìm đắm vào quá khứ như khi chúng ta giả vờ như không phải vậy, nhưng nếu chúng ta ngừng giả bộ, chúng ta mới có thể hiểu được thứ mà chúng ta mất đi trong sự ngây ngô giả tạo. Sự ngây ngô thường là cái cớ cho những người thực thi quyền lực. Còn đối với những người chịu sự tác động từ những hành vi thực thi quyền lực đó, sự ngây ngô chính là một sai lầm. (Trouillot, 1995, tr. xix)
Bằng việc xem xét các mối quan hệ giữa thực hành ngôn ngữ, hệ tư tưởng, chính sách và thiết lập chương trình, cuốn sách này xem các tương tác xảy ra trong giáo dục cho người Điếc và tổ chức cộng đồng người Điếc làm địa điểm tiến hành các cuộc điều tra chính trị xã hội. Đối với cơ cấu giáo dục phản ánh hệ tư tưởng về ngôn ngữ ký hiệu và người Điếc như là một nhóm đối tượng được đặc biệt lưu ý bởi thực trạng và địa vị xã hội, cuốn sách này tập trung nghiên cứu về các trường hợp hòa nhập và tách biệt mà chính tôi quan sát được và từ những người Điếc tham gia nghiên cứu mô tả lại. Những phải hồi của người Điếc về cơ cấu giáo dục và lực lượng kinh tế-chính trị-xã hội khác đã giải thích về cách mà hành vi xoay quanh NNKH TP.HCM đóng góp hình thái chính trị xã hội giữa những người Điếc và người nghe cũng như cách mà hành vi dựa trên ngôn ngữ ký hiệu thúc đẩy đáng kể sự chuyển biến về chính trị xã hội.
Các dữ liệu và tài liệu khác được đánh giá xuyên suốt cuốn sách này đã cho thấy cách mà các quan điểm của người Điếc và người nghe về ngôn ngữ và năng lực xã hội của người Điếc phản ánh và phản hồi các mối quan tâm về những yêu cầu và hạn chế của quyền công dân dưới thời kỳ thị trường xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giai đoạn định hướng phát triển nhà nước. Đề án nghiên cứu này bắt đầu được tiến hành vào đúng thời điểm xuất hiện làn sóng khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008, vào giai đoạn giữa của nghiên cứu (2012), Việt Nam đã đạt được mức thu nhập dưới trung bình và cải thiện hồ sơ nhân quyền; do đó, ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng, các chỉ số về kinh tế và xã hội của Việt Nam vẫn giữ được trạng thái cân bằng, vượt qua nhiều nước phát triển và đang phát triển khác.
Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong giai đoạn này được mô tả chi tiết trong nhiều bản báo cáo khác nhau của Chính phủ Việt Nam và trong các báo cáo quốc tế như Báo cáo đầy đủ về Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2013; sau đây gọi tắt là MDG-VN 2013). Theo Liên Hợp Quốc, các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) là “các mục tiêu định lượng và có thời hạn của thế giới nhằm giải quyết tình trạng đói nghèo tột cùng trên nhiều khía cạnh – thu nhập, nghèo đói, bệnh tật, thiếu nơi ở thích hợp và bị loại trừ, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới, giáo dục và môi trường bền vững” (Dự án Thiên niên kỷ LHQ/Chương trình Phát triển LHQ, 2006). Trong MDG-VN 2013, Việt Nam báo cáo những cải thiện đáng kể trong tám mục tiêu chiến lược của MDG1. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét kỹ hơn các trường không được MDG đánh giá (Ví dụ, các nhóm ngôn ngữ ít được biết đến hơn như cộng đồng ngôn ngữ ký hiệu của người Điếc, người khuyết tật, những người bị gạt sang bên lề xã hội vì lý do giới tính và xu hướng tính dục) thì kết quả của MDG được cho là không chính xác đối với một số nhóm so với những nhóm còn lại2.
Chẳng hạn như, MDG-VN 2013 báo cáo tỷ lệ nhập học thực tế ở cấp tiểu học là 97% trong năm học 2008–2009 và 97,67% trong năm học 2012–2013. Những con số này sẽ thấp hơn rất nhiều nếu bao gồm cả dữ liệu tuyển sinh từ các trường chuyên biệt dành cho người Điếc. Tỷ lệ nhập học 97% tương thích với báo cáo năm 2010 của Ban điều phối quốc gia về Người khuyết tật (từ năm 2016 gọi là Ủy ban quốc gia về người khuyết tật Việt Nam), trong đó nói rằng người khuyết tật “đã cho thấy một tình trạng đáng báo động về bản thân và cuộc sống của họ” (trang 8). Báo cáo thứ hai cũng đo lường tỷ lệ nhập học của người khuyết tật (tổng hợp), cho thấy chỉ 9,1% người khuyết tật hoàn thành chương trình trung học và chỉ 1,7% hoàn thành chương trình đào tạo nghề. Do đó, mặc dù cả hai báo cáo Tổng điều tra quốc gia về dân số đều mô tả một số lượng lớn người khuyết tật (GSO, 2006 2009)3, tuy nhiên không chắc rằng Chính phủ đang tính đến những học sinh Điếc (và những học sinh khác được xếp vào nhóm khuyết tật) trong các khảo sát về chương trình giáo dục phổ thông của họ. Điều này gợi lại cuộc thảo luận của tôi về việc tăng cường giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên biệt (Chương 3). Sự tăng cường này có ý nghĩa lớn đối với việc lập kế hoạch phát triển quốc gia và quốc tế cho nhiều lĩnh vực, bao gồm phân phối nguồn lực quốc gia cho các Bộ và cơ quan chịu trách nhiệm về giáo dục và đào tạo; chương trình giáo dục và điều phối; chính sách và kế hoạch ngôn ngữ; chuyển giao từ trường học sang nơi làm việc; việc làm bền vững; và các lĩnh vực khác.
Phân tích của MDG-VN 2013 cho biết thêm: Không giống như các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2006 và 2009 và báo cáo của NCCD năm 2010, phần sức khỏe của MDG-VN 2013 không báo cáo dữ liệu về người khuyết tật. Thứ hai, các phần khác của MDG-VN 2013 báo cáo về các nhóm dân tộc thiểu số nhưng không đề cập đến người Điếc hoặc ngôn ngữ ký hiệu (xem các phần về MDGs 3 và 7). Trên thực tế, mặc dù tình trạng người Điếc phải đối mặt với đói nghèo diễn ra khá phổ biến (ở Việt Nam và trên toàn thế giới) và khả năng tiếp cận giáo dục và chăm sóc sức khỏe vô cùng hạn chế (ở Việt Nam và trên toàn thế giới), người Điếc, các trường học đặc biệt và ngôn ngữ ký hiệu đều không được đều cập trong toàn bộ MDG-VN 2013.
Trong phần giới thiệu của cuốn sách mà tôi đã đề cập, giữa khoảng thời gian mà Trang xuất hiện trong chương trình “310 năm hình thành và phát triển tỉnh Đồng Nai” (2008) và thời gian thực hiện bài viết này, việc tham gia xã hội dựa trên ngôn ngữ ký hiệu của người Điếc ngày càng gây được sự chú ý rộng rãi của mọi người. Điều này vẫn đúng mặc dù cuốn sách này có thể đưa ra bất kỳ phê bình nào liên quan đến cơ chế báo cáo quốc gia, chẳng hạn như MDG-VN 2013. Người Điếc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam ngày nay là những người tham gia rất tích cực vào các hoạt động trong phạm vi cả nước. Hiện nay, có hơn 24 nhóm và câu lạc bộ của người Điếc trên cả nước, sự phối hợp giữa các mạng lưới các CLB của người Điếc nhằm tăng cường các hoạt động của toàn thể hội viên và các chiến dịch xã hội được thực hiện ở cấp địa phương. Do đó, các mạng lưới các CLB của người Điếc đã sẵn sàng để được chính thức công nhận là một hội đặc thù cấp quốc gia (điều này cũng sẽ cho phép họ được đăng ký chính thức làm thành viên của Liên đoàn Người Điếc Thế giới). Một số dự án của tổ chức phi Chính phủ quốc tế được đánh giá cao cũng đã tổ chức chương trình đào tạo nhằm nâng cao nhận thức của người Điếc trong việc theo đuổi giáo dục đại học và đào tạo trọng tâm về thương mại. Những người Điếc có bằng đại học về giáo dục tiểu học cho người Điếc hiện đang làm việc tại một số trường học chuyên biệt ở nhiều vùng miền khác nhau trên khắp cả nước. Các dự án về ngôn ngữ học ký hiệu tuy nhỏ nhưng lại là nền tảng vững chắc cho các hoạt động mà người Điếc đang tiến hành.
Từ một góc độ nào đó, một điều thú vị xảy ra vào năm 2008, khi một người Điếc sử dụng ký hiệu đã được mời xuất hiện trong một chương trình kỷ niệm những thành tựu lịch sử của tỉnh Đồng Nai. Tỉnh Đồng Nai đã và đang được áp dụng chương trình giáo dục đại trà như các tỉnh khác. Hơn nữa, trong những thập kỷ gần đây, Đồng Nai đã mở một số trường dạy trẻ khuyết tật như ở các tỉnh khác, và ở hầu hết các địa điểm này, việc giáo dục trẻ Điếc được thực hiện chủ yếu bằng tiếng Việt nói và viết. Do đó, việc mời một người Điếc sử dụng ký hiệu xuất hiện trong chương trình kỷ niệm “310 năm hình thành và phát triển tỉnh Đồng Nai” sẽ tạo ra dấu ấn lịch sử cho việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu [NNKH; ngôn ngữ ký hiệu]; nó cũng cho thấy NNKH được cả Đang và Chính phủ Việt Nam cho phép lưu hành. Trong những trường hợp như vậy, một người Điếc sử dụng ký hiệu có thể tạo uy tín cho nhà nước xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản với tư cách vừa là người bảo vệ các giá trị truyền thống, vừa là lực lượng hiện đại hóa nhân đạo và thích đáng. Tuy nhiên, vì những tình huống này đã khiến cho lịch sử và thực tại của người Điếc Việt Nam trở nên mơ hồ nên chúng ra có thể coi họ là một nhóm đối tượng được nhà nước chiếu cố (thay vì được công nhận chính thức). Việc đại diện cho người Điếc trên các phương tiện truyền thông quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc quảng bá hình ảnh tích cực của NNKH TP.HCM (và NNKH Việt Nam nói chung). Những điều kiện như vậy đảm bảo cho các nghiên cứu khoa học xã hội sâu hơn về vai trò của người Điếc đã và đang thực hiện trong bối cảnh có sự thay đổi về mặt xã hội, chính trị và kinh tế của xã hội Việt Nam đương đại. Chúng cũng đảm bảo cho việc thực thi những cam kết hỗ trợ cho những nỗ lực của người Điếc (và người nghe) trong việc đóng góp vào sự phồn thịnh của ngôn ngữ và dân tộc Việt Nam – điều đã được hình thành tồn tại trong các tổ chức xã hội có liên quan đến ngôn ngữ ký hiệu.
Từ góc độ khác, sự hiện diện của người Điếc sử dụng ký hiệu trên sóng truyền hình và trên các phương tiện truyền thông đại chúng khác đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong nhiều thập kỷ của công cuộc xã hội chủ nghĩa nhằm đổi mới đất nước cũng như cuộc sống thường ngày đối với tất cả công dân Việt Nam. Việc truyền đạt ý tưởng của riêng họ cùng với phiên dịch viên NNKH TP.HCM-tiếng Việt đã cho thấy tính hiệu quả của mô hình xã hội chủ nghĩa và thành quả của tiến bộ xã hội. Sự thành công của người Điếc sử dụng ký hiệu tại trường học và trong công việc là một chỉ số đánh giá khác của dự án xã hội chủ nghĩa hiện đại và tiến độ. Trong khi các chỉ trích đang tập trung vào chương trình giáo dục đại chúng của Việt Nam thì nhà nước Việt Nam càng phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc chứng minh tính hiệu quả của giáo dục đặc biệt đối với nhóm học sinh bị coi là gánh nặng của xã hội và không thể dạy được. Trong bối cảnh các loại ngôn ngữ ký hiệu của nước ngoài đang dần được phát triển để thay thế NNKH Việt Nam, một câu hỏi cấp bách được đặt ra rằng, liệu nhà nước Việt Nam có hợp pháp hóa văn hóa Điếc trong vòng một hoặc hai thế hệ tới hay không, hay thay vào đó sẽ chuyển sang các ngôn ngữ ký hiệu bên ngoài khác (Ví dụ: Ngôn ngữ ký hiệu Hoa Kỳ, Ngôn ngữ ký hiệu Úc)?
Có hai điểm không thể không nhấn mạnh đó chính là các cán bộ Nhà nước khởi xướng phương pháp giáo dục chỉ bằng lời nói vào cuối những năm 1980 không phải là những người ra quyết định về giáo dục cho người Điếc ngày nay (ngoại trừ các cán bộ cấp cao của Bộ GD&ĐT). Cũng không thể phủ nhận rằng nhà nước Việt Nam đương đại đã có một bước chuyển mình đáng kể theo hướng gắn kết nhiều hơn với người Điếc và hướng tới cam kết bố trí nguồn lực cho NNKH Việt Nam và giáo dục người Điếc bằng NNKH Việt Nam. Đáng chú ý, nhà nước cũng đã tăng cường hỗ trợ các dự án phát triển quốc gia và quốc tế, trong đó có sự tham gia của người Điếc với tư cách là nhân viên và giảng viên (không đơn thuần chỉ là người tham gia). Điều đó cũng đã tạo ra các mối quan hệ cộng tác liên quan đến việc sử dụng một hoặc nhiều loại NNKH trong một hoạt động hoặc chương trình dự án nhất định. Kể từ năm 2010, tin tức quốc gia đã được phiên dịch sang cả NNKH TP.HN và NNKH TP.HCM (mặc dù vẫn còn một số vấn đề)4. Nhà nước Việt Nam cũng chính thức ủng hộ cuộc đi bộ diễu hành đầu tiên trên đường phố về quyền của người khuyết tật, được tổ chức tại thủ đô Hà Nội vào ngày 29 tháng 11 năm 2014 mặc dù những người tham gia cuộc tuần hành có thể bị coi là hơi nhạy cảm với nhà nước Việt Nam vì đã có chủ đề cho diễu hành là “Hiện thực hóa quyền”5.
1. Mục tiêu MDG cho giai đoạn 2000–2010 nhằm: (1) Xóa đói và giảm nghèo; (2) đạt phổ cập giáo dục tiểu học; (3) bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ; (4) giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; (5) cải thiện sức khỏe bà mẹ; (6) phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; (7) đảm bảo tính bền vững của môi trường; và (8) xây dựng quan hệ đối tác toàn cầu để phát triển. Trong giai đoạn 2016-2030, các Mục tiêu Phát triển Bền vững của LHQ đã thiết lập 17 lĩnh vực tương ứng với 5 trong số các mục tiêu (Mục tiêu 4, 8, 10, 11 và 17), giải quyết các điều kiện để hòa nhập xã hội và bình đẳng cho người khuyết tật; xem tại: https://www.un.org/development/desa/disabilities/about-us/sustainable-development-goals-sdgs-and-disability.html).
3. Báo cáo của TCTK (2006) mô tả 15,3% tổng dân số từ 5 tuổi trở lên trên có một hoặc nhiều khuyết tật (với 3,2%, hoặc khoảng 2,5 triệu người được coi là “khuyết tật về thính giác”). Báo cáo của TCTK (2009) mô tả 7,8% tổng dân số từ 5 tuổi trở lên trên cả nước có một hoặc nhiều khuyết tật (với 1% hoặc khoảng 1 triệu người được coi là “khuyết tật về thính giác”). .
4. ối với người Điếc địa phương và ban lãnh đạo đài truyền hình của Chính phủ, các loại ngôn ngữ ký hiệu được sử dụng trong các chương trình tin tức hàng ngày là một vấn đề còn nhiều tranh cãi. Các thực thể này giành quyền kiểm soát của Chính phủ đối với việc lựa chọn các loại ngôn ngữ ký hiệu được sử dụng để thông dịch tin tức, lựa chọn thông dịch viên, và theo những người tham gia nghiên cứu, đài truyền hình yêu cầu phải ký theo ngữ pháp tiếng Việt. Xem Cooper (2011) để thảo luận về vấn đề này và các ví dụ ở miền Nam Việt Nam.
5. Tiêu đề: Vì một thế giới hòa nhập, không rào cản cho người khuyết tật, cuộc đi bộ diễu hành này được thực hiện bởi Diễn đàn khuyết tật Châu Á Thái Bình Dương và là một phần của chủ đề “Hiện thực hóa quyền của người khuyết tật” đây là một chủ đề xuyên suốt khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 2014-2018. Để biết thêm thông tin về khung kế hoạch này có thể xem tại địa chỉ: “Make the Right Real” Báo chí đưa tin có khoảng 500 người đã tham gia đi bộ diễu hành, bao gồm 80 người điếc đại diện cho 10 tổ chức của người điếc, phiên dịch, gia đình và trẻ em điếc. http://thanhxuan.gov.vn/portal/home/print.aspx?p=1542