Lời cảm ơn
"Uống nước nhớ nguồn.
[Drinking water, remember the source.]
Tục ngữ Việt Nam
Đã có nhiều người đóng góp vào nghiên cứu trong cuốn sách này đến mức tôi không thể kể hết từng cá nhân. Mỗi cuộc trò chuyện, mỗi góc nhìn và cảm nhận, đã dạy tôi rất nhiều - cũng như những lần tôi được hướng dẫn cách sử dụng Ngôn ngữ ký hiệu Hồ Chí Minh (NNKH TPHCM) một cách trực tiếp và ngẫu nhiên, và khi người Điếc Việt Nam mô tả về sở thích và cách thức sử dụng ngôn ngữ và hoạt động xã hội của họ. Những tương tác này cũng giúp tôi hiểu rõ hơn về những giả định của mình, đặc biệt là những giả định liên quan đến các yếu tố lịch sử đã và đang định hình việc sử dụng ngôn ngữ bằng ký hiệu ở những địa điểm và thời điểm cụ thể, cách mọi người sống và thể hiện bản sắc chẳng hạn như |ĐIẾC| và |NGHE|, và những bản sắc đó thường khá khác biệt so với cách thức mà mọi người giao tiếp xã hội và tổ chức cuộc sống hàng ngày của họ. Những tương tác này giúp tôi ghi nhận tầm quan trọng của ngôn ngữ theo nhiều cách thức khác nhau và tầm quan trọng hữu hình của ngôn ngữ đối với các mối quan hệ xã hội và sự chuyển đổi xã hội.
Với những người Điếc và không Điếc ở miền Nam Việt Nam, bao gồm cả những người sử dụng hoặc không sử dụng ký hiệu, tôi nợ tất cả các bạn — các thầy cô giáo NNKH TPHCM, các đối tác nghiên cứu, những người đại diện và các tấm gương sử dụng NNKH TPHCM — một mối ân tình và đóng góp trí tuệ sâu sắc. Mặt dù có những ranh giới về văn hóa xã hội, địa lý và nguyên tắc có thể ngăn cách chúng ta, nhưng tôi vẫn muốn gọi từng người trong số các bạn là “bạn”. Nếu không có các bạn, nghiên cứu này sẽ không thể thực hiện được. Các bạn đồng nghiệp—cảm ơn rất nhiều. Tôi mong chúng ta sẽ biết nhau một thời gian dài trong tương lai, và sẽ có nhiều cơ hội để chia sẻ với nhau nữa.
Hình a. Bức tranh điêu khắc tại Chùa Hộ Quốc, Phú Quốc, Việt Nam. Phần này của bức tranh tường khắc họa ba thành phố: Hà Nội (Thủ đô của Việt Nam sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1975 đến nay), Huế (Cố đô, 1802–1945), và Thành phố Hồ Chí Minh (thủ đô của Nam Kỳ thời thuộc Pháp và sau này là của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, 1955–1975). Bên dưới bản đồ là dòng chữ sau: Uống nước nhớ nguồn. (Được sự cho phép của tác giả.)
Nghiên cứu được trình bày trong cuốn sách này được Trường Đại học Khoa học và Nghệ thuật của Đại học Hoa Kỳ tài trợ dưới hình thức tài trợ nghiên cứu không hoàn lại Robyn Rafferty Mathias/Mellon Grant (2007) và Học bổng Luận án Tiến sĩ (2008–2009). Sau đó, khi còn là giảng viên của Khoa Nhân học tại Đại học Mỹ, tôi cũng được trợ lý nghiên cứu của tôi là Jeanne Hanna nhiệt tình hỗ trợ trong quá trình viết bản thảo này (2014–2016). Những thời khắc khi tôi thấy lòng chùng xuống, không rõ khi nào nghiên cứu này mới hoàn tất, thì chính lòng nhiệt huyết của Jeanne dành cho chủ đề nghiên cứu của tôi, cùng với những mối liên hệ với nghiên cứu của chính cô đã truyền cảm hứng để tôi tiếp tục. Và cả sự hóm hỉnh, những bình luận chính trị sắc sảo và sự hài hước vui vẻ của cô nữa.
Tôi cũng biết ơn Hội đồng Nhân học và Giáo dục của Hiệp hội Nhân học Hoa Kỳ đã vinh danh tôi với giải thưởng Luận văn xuất sắc năm 2011. Giải thưởng này được Frederick Erickson, tác giả của cuốn Talk and Social Theory: Ecologies of Speaking and Listening in Everyday Life (Chuyện trò và Lý thuyết xã hội: Hệ sinh thái của Nói và Nghe trong Cuộc sống Hàng ngày) đề cử. Cuốn sách đã gây ấn tượng với tôi về tầm quan trọng của việc tham gia vào các tương tác vi mô và vũ đạo của giao tiếp, và giúp tôi khẳng định rằng mình đang đi đúng hướng. Tôi cũng nhận được tài trợ của một nhà tài trợ ẩn danh để tiến hành nghiên cứu sâu hơn. Nhờ vậy mà tôi có thể thực hiện nghiên cứu sau tiến sĩ vào năm 2012 và từ năm 2012 đến năm 2014, sau các chuyến công tác cho Dự án Tiếp cận Giáo dục Người Điếc Liên thế hệ (Intergenerational Deaf Education Outreach Project) - Việt Nam của Ngân hàng Thế giới do Tổ chức Phát triển mối Quan tâm Thế giới (World Concern Development Organization) thực hiện.
Tôi cũng vô cùng biết ơn những người bạn và đồng nghiệp thân yêu, những người đã đọc nhiều lần các bản nháp chương, đặt ra những câu hỏi sâu sắc, đưa ra lời khuyên bổ ích và thậm chí còn cung cấp một số tài liệu rất cần thiết: Zöe Avstreih, Bùi Bích Phượng, Paul G. Dudis, Elijah Adiv Edelman, Erin Moriarty Harrelson, Höching Jiang, Robert E. Johnson, Nikki C. Lane, William L. Leap, Siobhán McGuirk, Nguyễn Hoàng Lâm, Nguyễn Trần Thủy Tiên, Nguyễn Thị Thu, và Khadijat K. Rashid. Tôi cũng biết ơn các sinh viên-đồng nghiệp tại Đại học Mỹ và Đại học Gallaudet, họ đã tham gia trả lời các câu hỏi về ngôn ngữ trong ngữ cảnh và giúp tôi xây dựng tư duy và khiến cuốn sách dễ hiểu hơn: Tuyết Hoa Adamovich, Toska Broadway, Trisha Clifton, Aaron Graybill, Ikumi Kawamata, Emily Lahaie, Jeana Musacchia, Kate Pashby, Larissa Reed và Hancie Stokes. Cảm ơn các bạn đã chia sẻ với tôi sự nhiệt huyết đối với sự đa dạng đa ngôn ngữ và sự quan tâm đến các hình thức quyền lực và khả năng tiềm ẩn trong việc sử dụng ngôn ngữ, đại diện và hành động xã hội.
LƯU Ý: “Điếc tủy” không phải là một khái niệm được những người Điếc ở Việt Nam sử dụng. Thực ra, Điếc tủy là một khái niệm mà một người tham gia nghiên cứu sử dụng. Anh ấy dùng từ “tủy” (trong “tủy xương”) để bổ nghĩa cho từ ĐIẾC để thể hiện một giá trị được nhìn nhận theo hướng tích cực về ngôn ngữ ký hiệu, coi ngôn ngữ này là yếu tố cốt lõi của một con người. Khi nói đến tủy xương, độc giả Việt Nam thường liên tưởng đến những yếu tố tích cực về văn hóa, chẳng hạn như sức khỏe và sức mạnh. Tủy xương cũng là một nguyên liệu nấu ăn quan trọng, tạo nên hương vị ngon béo ngậy cho các món ăn Việt vốn thường được người Việt cùng nhau thưởng thức. Tủy cũng là biểu trưng cho sự thịnh vượng, do thịt (đặc biệt là thịt bò) rất khan hiếm trong và sau cuộc chiến tranh chống Mỹ, đến tận khi kinh tế khởi sắc ở những năm 1990. Trong cuốn sách này, |ĐIẾC TỦY| được sử dụng như một hình ảnh biểu tượng cho các giá trị văn hóa của Người Điếc Việt Nam, những người tự hào về di sản văn hóa Điếc của họ và tự hào rằng ngôn ngữ ký hiệu của họ là một phần quan trọng trong bối cảnh xã hội Việt Nam rộng lớn hơn.